Những câu chuyện thời hoa lửa: Tiếng hát tử tù - Bài thơ từ ngục tử tù Chí Hòa

08:41 21/11/2025     67

Công tác tuyên truyền, giáo dục   Ở tuổi 89, ông vẫn nhớ rõ từng giờ, từng ngày trong ngục tù. Người từng bị tuyên án chết giữa thời thanh xuân, nhưng không gục ngã, không cầu xin ân xá. Ông đã cùng đồng đội hát lên hành khúc giải phóng sau khi bị tòa án chính quyền Sài Gòn tuyên án tử hình.

Cựu tử tù Lê Quang Vịnh là chứng nhân đặc biệt của một thời tuổi trẻ VN dám sống, dám tin và dám hiến cả đời mình cho lý tưởng.

 

Những câu chuyện thời hoa lửa: Tiếng hát tử tù - Bài thơ từ ngục tử tù Chí Hòa- Ảnh 1.

Ông Lê Quang Vịnh kể lại những năm tháng đấu tranh bị địch bắt. ẢNH: NGỌC DƯƠNG

 

DẤU MỐC MỞ ĐẦU HÀNH TRÌNH CÁCH MẠNG

Sinh năm 1936 tại Huế, ông Lê Quang Vịnh lớn lên trong một gia đình trí thức yêu nước. Khi mới 14 tuổi, cậu thiếu niên gầy gò ấy chứng kiến cha mình bị lính Pháp bắn chết. Bi kịch ấy trở thành dấu mốc mở đầu cho hành trình cách mạng suốt đời.

Ngồi lặng nghe ông kể, nhìn ông - người đã đi qua gần một thế kỷ - kể về ngày thơ ấu mà giọng vẫn rắn rỏi: "Chính từ hôm đó (tức ngày chứng kiến cha bị lính Pháp bắn chết - NV), tôi biết mình sẽ đi con đường cách mạng, dù có phải đánh đổi cả đời".

Năm 1950, ông tham gia phong trào học sinh kháng chiến ở Huế, rải truyền đơn, viết khẩu hiệu phản đối chính quyền bảo hộ. "Hồi ấy chúng tôi chỉ có giấy, mực và cách in bột. Nhưng mỗi dòng chữ viết ra đều có thể đổi bằng mạng sống", ông nói, rồi kể tiếp: "Bị bắt, bị giam 7 tháng trong nhà lao Phủ Thừa, nhưng tôi vẫn không sợ. Ra tù, tôi lại tiếp tục".

Sau Hiệp định Genève năm 1954, theo sự giới thiệu của một người thầy, ông được kết nạp vào tổ chức thanh niên cách mạng bí mật bên bờ sông Hương. "Họp đêm, đốt đuốc, bàn chuyện nước nhà. Ai cũng trẻ, ai cũng tin rằng đất nước sẽ thống nhất", ông mỉm cười nhẹ, ánh mắt xa xăm.

 

Những câu chuyện thời hoa lửa: Tiếng hát tử tù - Bài thơ từ ngục tử tù Chí Hòa- Ảnh 2.

Ông Lê Quang Vịnh kể lại những năm tháng đấu tranh bị địch bắt. ẢNH: NGỌC DƯƠNG

 

Từ năm 1954 đến 1957, ông liên tiếp bị bắt, bị cấm hoạt động chính trị tại Huế vì tham gia Báo Ngày Mai - một ấn phẩm cách mạng đấu tranh đòi hiệp thương thống nhất đất nước. Khi ra tù, ông rời Huế vào Sài Gòn, mang theo khát vọng tiếp tục con đường dở dang. Giữa Sài Gòn hoa lệ cuối thập niên 1950, ở tuổi 24, ông tốt nghiệp thủ khoa Trường ĐH Sư phạm Sài Gòn (khoa Toán), đồng thời nhận bằng cử nhân giáo khoa toán học của Trường ĐH Khoa học Sài Gòn.

Tôi hỏi: "Lúc đó ông nghĩ mình sẽ đi dạy, chứ chưa hẳn làm cách mạng?". Ông cười: "Tôi dạy học cũng là để làm cách mạng thôi. Cách mạng trong tư tưởng, trong lớp học". Không dừng lại ở đó, ông còn ghi danh học thêm luật khoa và văn khoa. "Chủ yếu để kết nối sinh viên nhiều trường, tạo mạng lưới phong trào trong lòng đô thị", ông nói. Nhờ thành tích học tập xuất sắc, ông được quyền chọn trường dạy. Và trường trung học danh giá nhất miền Nam lúc ấy - Pétrus Ký Sài Gòn (nay là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, TP.HCM) đã chào đón ông.

Năm 1961, theo yêu cầu của Khu ủy, Giáo sư Lê Quang Vịnh rời Sài Gòn, ra căn cứ của Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định để chuẩn bị thoát ly. "Hồi đó, tôi viết một bản báo cáo gửi sinh viên quốc tế, tổng kết phong trào học sinh, sinh viên miền Nam chống Mỹ - Diệm. Viết xong, chưa kịp gửi, thì địch tập kích", ông kể.

KHI BẢN ÁN TỬ HÌNH ĐƯỢC TUYÊN ĐỌC…

Ngày 24.5.1962, Tòa án Sài Gòn tuyên án tử hình đối với Lê Quang Vịnh và một số đồng đội. Ông nhớ lại: "Lúc đó là 00 giờ 10 phút. Anh em chúng tôi đứng cả dậy hô: Đả đảo luật pháp phát xít miền Nam. Bọn lính nhào tới đánh, kéo lê chúng tôi xuống cầu thang và đẩy lên xe. Chúng tôi bắt đầu hát: Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng… Hát để chứng minh rằng mình không sợ". Giữa bạo lực và cái chết, những người thanh niên ấy đã chọn hát thay vì khóc, chọn ngẩng cao đầu thay vì khuất phục. Đó không chỉ là hành động phản kháng, mà là lời tuyên ngôn của cả một thế hệ - thế hệ tin rằng chết cho lý tưởng là sống trọn với Tổ quốc.

 

Những câu chuyện thời hoa lửa: Tiếng hát tử tù - Bài thơ từ ngục tử tù Chí Hòa- Ảnh 3.

Báo chí đưa tin về phiên tòa quân sự của chính quyền Sài Gòn tuyên án tử hình ông Lê Quang Vịnh (thứ 3 từ trái sang) và đồng đội. ẢNH: TƯ LIỆU

 

Ông kể: "4 tử tù chúng tôi bị đưa đến trại giam Chí Hòa và nhốt riêng từng người, mỗi người trong một phòng giam nhỏ nằm trong một khu mà về sau mới biết là ngục tử tù sắp bị hành quyết. Tuy bị nhốt trong 4 phòng cách biệt nhau, nhưng mỗi buổi sáng tôi vẫn được dẫn xuống tắm giặt chung ở một sân đất rộng có giếng nước nằm bên cạnh, nên chúng tôi vẫn liên hệ được với nhau. Vả lại, khi cần trao đổi, tôi cứ nói lớn tiếng thì các anh ở phòng bên cũng nghe được".

Nửa tháng sau, đại tá Lê Văn Khoa - Ủy viên chính phủ của chính quyền Sài Gòn - vào tận ngục tử tù đưa cho ông cây viết và tờ giấy, thuyết phục ông làm đơn xin Tổng thống Ngô Đình Diệm ân xá. Ông kể: "Ông Khoa nói: Tổng thống không hiểu tại sao một người thành đạt như anh lại theo Cộng sản. Chỉ những kẻ thất bại mới làm thế". Thế nhưng ông đáp gọn: "Tôi không bao giờ xin những kẻ không đáng xin".

Câu nói ấy về sau trở thành biểu tượng của lòng kiên trung. Ông kể đêm hôm đó, ông không ngủ. Trong ngục Chí Hòa, từ tờ giấy và cây bút ông Khoa đưa, ông viết liền một mạch bài thơ Tiếng hát tử tù - và rồi bài thơ đã vượt khỏi bốn bức tường…

Một đêm gần sáng, khi đang bị biệt giam, ông nghe tiếng động nhẹ ở khe cửa. Một cuộn giấy nhỏ bọc ni lông được đẩy vào. Bên trong là mảnh thư: "Đả đảo Mỹ - Diệm giết hại người yêu nước. Có gì cần nhắn gởi ra ngoài đời, cứ viết và gói lại như thế này, nhất định sẽ đến đúng nơi". Ông kể rằng ban đầu ông ngờ là bẫy gián điệp, nhưng rồi vẫn quyết định viết bài thơ Tiếng hát tử tù, bọc kín, đẩy ra ngoài.

Trong ngục tử tù Chí Hòa, ông bị giam trong căn phòng bít kín, nhưng ông không tuyệt vọng. "Ở đó, tôi thấy lòng mình bình yên lạ lùng. Bình yên của người đã hiểu vì sao mình sống, và nếu phải chết, thì cũng phải chết cho xứng đáng", ông bộc bạch.

Và rồi ông kể, thời gian trôi, ông không bị hành quyết mà bị đày ra Côn Đảo, sống gần 3 năm trong Khu Tử hình gọi là "Khu Tu dưỡng". Ở đó, ông gặp những đồng chí mới bị bắt, được nghe họ kể lại rằng bài thơ Tiếng hát tử tù đã lan khắp nơi. Khi ấy, ông mới biết bài thơ mình viết trong đêm tối đã trở thành lời hiệu triệu của tuổi trẻ VN. "Người ta có thể xiềng chân tay, nhưng không thể xiềng được ý chí. Tôi nghĩ chính niềm tin đã giữ cho mình sống sót, chứ không phải may mắn", ông nói với giọng mạnh mẽ.

LÝ TƯỞNG KHÔNG BAO GIỜ CHẾT

Năm tháng sau chiến tranh, Lê Quang Vịnh trở lại đời sống thường dân - giản dị, trầm tĩnh, ít nói về mình. Ông làm công tác giáo dục, công tác thanh niên, rồi nghiên cứu, nhưng vẫn sống như người thầy cũ của bao thế hệ - kiên nhẫn, hiền hậu, nguyên tắc. Giờ đây, khi tuổi đã 89, trí nhớ ông vẫn trong trẻo. Ông kể lại những ngày bị bắt, bị tra khảo, bị lưu đày như thể chỉ vừa xảy ra hôm qua. "Cái đáng sợ nhất không phải là cái chết, mà là khi người ta mất niềm tin. Tôi không sợ chết, vì đã chọn con đường đúng", ông khẳng định.

Trong căn hộ chung cư, chúng tôi ngồi nghe ông đọc lại vài câu thơ năm xưa - giọng vẫn rõ, từng chữ vang và mạnh: "Tôi đi trên đường Marx - Lenin/Theo ánh sáng Hồ Chí Minh rực rỡ…". Đó không chỉ là lời thơ, mà là lời sống, được viết bằng tuổi trẻ và niềm tin.

Hơn 6 thập niên đã qua nhưng ông vẫn nhớ từng từ bài thơ Tiếng hát tử tù viết trong ngục tử tù Chí Hòa. Nhìn ông nói, đôi mắt sáng nhưng hiền, người ta cảm nhận rõ ràng: đằng sau khuôn mặt bình dị ấy là một bản lĩnh phi thường - bản lĩnh của người từng đi qua lằn ranh giữa sự sống và cái chết, nhưng vẫn giữ nụ cười nguyên vẹn.

Câu chuyện của ông Lê Quang Vịnh không chỉ là hồi ức của một người từng bị kết án tử hình. Đó là câu chuyện về niềm tin, khí phách và lòng trung thành với lý tưởng cách mạng. Giữa bóng tối ngục tù, ông có niềm tin vững chắc rằng ngày mai đất nước sẽ tự do. Giờ đây, khi ông đã gần 90 tuổi, Tiếng hát tử tù vẫn còn trong ký ức nhiều thế hệ - như ngọn lửa không tắt của một thời hoa lửa.

Một người có thể bị giam, bị đày, bị tuyên án tử hình nhưng lý tưởng thì không bao giờ bị chôn vùi. "Tôi sẵn sàng hiên ngang lên máy chém/Hai chữ vàng Cách Mạng chói trong tim…" (trích Tiếng hát tử tù). (còn tiếp)

 

Theo TNO