Những câu chuyện thời hoa lửa: Quyển nhật ký và tập thơ ghi trong lửa đạn
08:23 24/10/2025 68
Công tác tuyên truyền, giáo dục "... Dù cho còn một giọt máu, cháu sẵn sàng hiên ngang trút hơi thở cuối cùng cho mảnh đất quê hương...". Đấy là dòng nhật ký của dũng sĩ Bùi Văn Rê ghi trong kháng chiến chống Mỹ. Ông hiên ngang đi qua lửa đạn đến ngày toàn thắng.
Bám trụ trên quê hương khói lửa
Thượng úy Võ Hữu Thọ (71 tuổi, nguyên Trưởng ban Tuyên huấn Trung đoàn 270, Quân khu 5, sinh sống tại P.Trà Câu, Quảng Ngãi) cho rằng 54 năm trước mình ở lại miền Nam chiến đấu là đúng đắn. Ông nhớ lại đêm 4.9.1971, lãnh đạo Ban Binh vận tỉnh Quảng Ngãi cử người đưa ông lên căn cứ để ra Bắc học tập và chữa bệnh sau những ngày bị đối phương đọa đày trong ngục tù. Bởi người nhỏ con và khai sinh chậm 2 năm so với tuổi thật nên ông được bố trí đi cùng đoàn thiếu niên ra miền Bắc học tập.
Theo đường Trường Sơn ra gần đến sông Bến Hải, ông đổi ý, trở về quê hương. "Khi ấy, cha tôi cùng 3 anh chị công tác và học tập ở ngoài đó. Vậy nên tôi được cấp trên đưa ra Bắc chữa bệnh và học tập bên người thân. Nhưng ra gần đến sông Bến Hải gặp bộ đội rầm rập từ Bắc vào Nam, tôi nghĩ nếu đi thì mình có thể sống nhưng biết bao thanh niên vào Nam chiến đấu thì sao mình lại đi? Thế là tôi theo bộ đội quay vào, trình bày nguyện vọng với lãnh đạo cơ quan binh vận và không bị kỷ luật...", ông kể.
Ông Thọ học y tá rồi phục vụ du kích Xã đội Phổ Thuận (giờ sáp nhập thành P.Trà Câu, Quảng Ngãi). Sau đó, ông chuyển sang Đại đội 219 (Huyện đội Đức Phổ), cứu chữa thương binh cùng nhân dân và cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương. Khi ông được kết nạp vào Đảng, chỉ huy đơn vị gợi ý ông ra Bắc học bác sĩ hoặc học chính trị ở miền Nam. Thế là ông xin học lớp bồi dưỡng chính trị với thời gian 3 tháng rồi chuyển sang một số đơn vị bộ đội.
Đầu năm 1975, ông bị thương nặng khi tham gia trận đánh Gò Sỏi (phía bắc Quảng Ngãi). Khi ấy, ông là Chính trị viên Đại đội 2, Tiểu đoàn 81, Trung đoàn 94, Tỉnh đội Quảng Ngãi. Ông Trần Tấn Dũng (69 tuổi, ở P.Trà Câu) nhớ lại: "Lúc đó, tôi là chiến sĩ liên lạc nên đi cùng anh Thọ trong những trận đánh. Anh gan dạ nên nhiều anh em nể phục. Trận đó, anh bị thương nặng, chính tay tôi băng bó rồi cõng đến Trạm xá tiền phương Tiểu đoàn 81".
Tương tự, nhiều bậc cao niên vùng quê phía nam Quảng Ngãi vẫn thường nhắc về sự kiên cường bám trụ quê hương của dũng sĩ Bùi Văn Rê (Xã đội trưởng Phổ Cường trong kháng chiến chống Mỹ, nay sáp nhập thành xã Khánh Cường) cùng quyển nhật ký và tập thơ ghi trong lửa đạn. Tuổi 12, ông Rê làm liên lạc cho ông Võ Thủ (Bí thư Xã ủy Phổ Cường, hy sinh tháng 3.1963) và nhiều cán bộ, du kích. Sự thông minh, gan dạ giúp ông bao lần thoát khỏi sự truy lùng của đối phương, mang công văn, tin tức cho cán bộ. Rồi ông tham gia du kích, trực tiếp cầm súng chiến đấu. Bom đạn 5 lần gây thương tích nặng nhưng ông nhất quyết xin ở lại miền Nam thay vì ra Bắc điều trị và học tập.
Những dòng nhật ký với tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh cho quê hương: "Chú Ba! Trong lúc cháu còn đang điều trị, cháu nhớ mãi hôm chú đến thăm cháu. Động viên cháu đi… để có điều kiện chữa bệnh và ăn học. Điều tâm huyết của cháu, chú cũng chưa chấp nhận, là cháu sẽ ở lại. Dù cho còn một giọt máu, cháu sẵn sàng hiên ngang trút hơi thở cuối cùng cho mảnh đất quê hương. Cháu mong chú sống mãi để sau này chú nghĩ đến cháu thì chỉ cần nhắc lại lời tâm huyết của cháu, thế thôi. Nhưng rồi chú đâu còn nữa… Thôi thì cháu sẽ nguyện cùng chú, thản nhiên ngã xuống cho mảnh đất này cũng đủ rồi...".
Dũng sĩ Bùi Văn Rê (qua đời năm 2004 - PV) ghi những dòng tâm sự với Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Châu Thọ Chín (hy sinh tháng 4.1972): "… Như chú T. nói thì anh sẽ đi miền Bắc. Theo anh là anh không đi. Thà anh em ta chỉ có giờ cuối cùng... Anh nhắc lại với em rằng: Thà 20 năm ngắn ngủi cuộc đời còn hơn sống trăm năm vô vị".
Gửi lại tuổi thanh xuân và một phần thân thể tại chiến trường, ông Rê có 7 lần được phong tặng dũng sĩ cùng nhiều huân chương, huy chương cao quý. Ông được cấp trên cử tham dự Đại hội anh hùng các lực lượng vũ trang miền Nam đầu năm 1974. Cuối năm đó, ông là thành viên đoàn đại biểu Quân giải phóng miền Nam ra Hà Nội tham dự lễ đón nhận Huân chương Sao vàng nhân dịp 30 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam
Đầu năm 1975, ông được cử sang Liên Xô học quân sự nhưng nhất quyết xin trở về khi những đoàn quân rầm rầm tiến vào giải phóng miền Nam. "Năm 1970, tôi làm cơ sở bí mật do anh Rê phụ trách. Sau đó, tôi tham gia du kích rồi về Đại đội đặc công 120, Huyện đội Đức Phổ. Anh Rê là người chỉ huy chiến đấu rất tài tình khiến cho địch khiếp sợ, xứng đáng được truy tặng danh hiệu anh hùng. Ngày anh qua đời, bà con và bạn bè đưa tiễn đông lắm...", ông Dương Nhơn (73 tuổi, ở xã Khánh Cường) tâm sự.

Thơ gửi non sông
Giữa lúc sự sống và chết chỉ trong gang tấc, ông Rê vẫn bình thản viết những câu thơ động viên thanh niên hăng hái tham gia đánh trả quân thù. Những vần thơ cháy bỏng tình yêu quê hương:
"Bao đau khổ của đồng bào yêu dấu/Dưới bàn tay, loạt súng của quân thù/Chốn chiến trường đang gọi khách chinh phu/Đang chờ đợi những tâm hồn yêu nước/Đem xương máu để chặn đường xâm lược/Dẫu hy sinh chiến đấu vẫn cam lòng/Đây những lời tâm huyết của em mong/Để ký thác cho người yêu tha thiết/Không anh ạ! Ngày hôm nay tạm biệt/Bước thành công rạng rỡ của ngày mai"./Và hẹn ngày sum họp lứa đôi:/Anh ra đi những ngày xa vắng/Nhẹ tình em nhưng nặng nghĩa đồng bào/Vui lên anh, xin đừng ngại gian lao/Đừng lưu luyến trước giờ ly biệt/Này anh ạ! Đây những lời tâm huyết/Của người yêu tạm biệt lúc xa anh/Em nguyện giữ ngày mai tươi thắm mãi/Đợi anh về với khúc khải hoàn ca/Ngày ấy là ngày xuân trở lại/Cũng là ngày duyên thắm của đôi ta".
Từ Bắc về Nam ghé thăm quê nhà Quảng Ngãi, dũng sĩ Bùi Văn Rê hào hứng khi sắp vào trận chiến cuối cùng với những vần thơ:
"Đêm nay về đến sông Trà/Chắc là phương Bắc, Hồng Hà dõi theo/Sông Trà dòng nước trong veo/Mênh mang gió mát qua chiều mùa xuân/Nhớ ai lòng dạ bâng khuâng/Đường ra phía trước dừng chân chốn này/Trên đường đi của ngày mai/Tin này biết nhắn cho ai bây giờ/Đêm qua trong một giấc mơ/Trên đường ra trận tình cờ gặp nhau/Tay cầm một lá cờ sao/Vai mang khẩu súng, vẫy chào đoàn quân/Nhận ra nhau, vừa giận vừa mừng/Tiễn người ra trận xin đừng quên nhau/Giữa phố phường, người dõi ngóng theo/Hai ta cùng hẹn chờ nhau ngày về".
Quê hương giải phóng, ông kết thúc tập thơ với những dòng cảm tạ: "Thật đáng quý, đáng tự hào biết mấy, đáng yêu thương biết bao. Khi mà mình có những người bạn, những đứa em từ nơi xa xôi đến cùng nhau chia lửa và giúp cho nhau từng viên đạn, từng giấc ngủ đêm khuya. Thật là "nước tìm biển cả, tình người tìm nhau", cũng là "Hai niềm thương nối một nhịp cầu/Ra đi còn nhớ con tàu viễn phương".
Theo TNO Tweet




















.jpg)


.jpg)








