Cách mạng Tháng Tám: Thắng lợi khởi nguồn từ kết tinh sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

09:12 20/08/2025     178

3 Phong trào   Trong thời đại cách mạng vô sản, chủ nghĩa Mác - Lê-nin phân tích, giai cấp vô sản ở mỗi nước phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi cho cách mạng.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”; sau này, V.I. Lê-nin đã phát triển, bổ sung thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lĩnh hội những quan điểm sâu sắc trong mối quan hệ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Người chủ trương gắn chặt tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản theo định hướng “Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”; đề cao kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại bên cạnh nguyên tắc dựa vào nội lực, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, xác định cần tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của thế giới.

Nhìn lại thành công của Cách mạng Tháng Tám, có thể thấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ sớm đã chủ trương nâng cao sức mạnh nội sinh, chuẩn bị toàn diện cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền; các tài liệu chủ nghĩa Mác - Lê-nin bằng nhiều kênh được bí mật chuyển về nước và tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, nhất là tầng lớp công nhân để tạo sự chuyển biến về chất của lực lượng cách mạng. Thông qua 3 đợt diễn tập, quần chúng được giác ngộ về chính trị, Đảng ta cũng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trong tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh, phát huy tinh thần phối hợp, đoàn kết quần chúng; mặt khác, khi nhận thấy tính ưu việt, khoa học, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, với thành quả mà cách mạng mang lại. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng - đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Trong 2 năm 1940 - 1941, nước ta nổ ra 3 cuộc khởi nghĩa vũ trang, là khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9-1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (tháng 11-1940) và binh biến Đô Lương (tháng 1-1941); tuy nhiên, các cuộc nổi dậy đều thất bại vì điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nhưng là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu thực hiện cuộc đấu tranh bằng vũ trang của các dân tộc Đông Dương.

Cùng với đó, Đảng ta công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ của mình là tập hợp mọi lực lượng yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy cao độ tinh thần ái quốc của nhân dân, vận động các tầng lớp, giai cấp cùng tham gia cứu quốc. Bên cạnh đó, tập trung xây dựng các đội du kích, sau này là đội Cứu quốc quân; thành lập đội tự vệ vũ trang để chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và thúc đẩy cơ sở chính trị phát triển; ngày 22-12-1944, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, đã lập ra “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”.

Bên cạnh tăng cường sức mạnh dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sức mạnh thời đại; chủ động kết hợp phong trào yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc với phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình chống chủ nghĩa thực dân xâm lược, chủ nghĩa phát-xít, góp phần vào phong trào giải phóng dân tộc và gìn giữ hòa bình thế giới. Vì vậy, Việt Nam tận dụng sức mạnh của thời đại, thực hiện ngoại giao, phối hợp với các nước khác trong khu vực và thế giới, tiếp nhận và chia sẻ nguồn lực vật chất cũng như tinh thần trong cuộc kháng chiến vì chính nghĩa. Mặt khác, chủ trương trên cũng giúp đất nước nắm bắt thông tin mới về tình hình thế giới, khu vực và nhận được sự giúp đỡ, mặc dù còn hạn chế của phe Đồng Minh - điều này có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh liên lạc khó khăn, nhất là khi Pháp và Nhật đóng cửa biên giới nhằm cô lập nước ta. Thực tế, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh nhanh chóng phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cơ sở nắm bắt thông tin, nhận định rõ tình hình thế giới chuyển biến nhanh chóng, tác động thuận lợi đến cách mạng Đông Dương, là thời cơ “nghìn năm có một”: Nhật đầu hàng vô điều kiện, bộ máy cai trị của Pháp bị Nhật lật đổ, quân Đồng Minh chưa kịp đến, tại Đông Dương có một khoảng trống về chính trị, khí thế quần chúng đang sục sôi, sức mạnh dân tộc đã được hội tụ trong thời gian dài; sức mạnh thời đại đã được kết tinh,...

Cách mạng Tháng Tám đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp hơn 80 năm và ách thống trị của phát-xít Nhật gần 5 năm, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế; xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc ta. Kể từ đây, Việt Nam chính thức trở lại trên bản đồ thế giới với tư cách là một quốc gia độc lập, tự chủ, dân chủ, tiến bộ; các nước dân chủ, tiến bộ lần lượt công nhận, kết nối. Trước Cách mạng Tháng Tám “dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi nhục…. Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lẫy lừng khắp năm châu, bốn biển”. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn 1945 - 1954) và đế quốc Mỹ (giai đoạn 1954 - 1975), các nước tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đã ủng hộ Việt Nam cả về vật chất và tinh thần, đưa cuộc kháng chiến chính nghĩa đi đến thắng lợi cuối cùng.

Điều đặc biệt, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại; giáng một đòn chí mạng vào nền móng của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất; góp phần đánh đổ chủ nghĩa phát-xít, kiến tạo hòa bình cho khu vực và trên thế giới. Đây cũng là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới và được thế giới ngợi ca, rằng với sự chiến đấu anh dũng, nhân dân Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí vẻ vang nhất trên thế giới. Cách mạng Tháng Tám trở thành tấm gương sáng đối với phong trào cách mạng thế giới, điểm tựa tinh thần, nguồn cổ vũ cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các quốc gia ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh, nhất là đã “làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới… Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập”. Mặt khác, chiến thắng vĩ đại này đã thể hiện tài năng, trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự tiếp nối và là thắng lợi tất yếu sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, qua đó, “chứng minh sự đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng minh sự đúng đắn của con đường của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra”.

TS Nguyễn Minh Phương - Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng. Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản
Bình luận