Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp

10:22 01/12/2025     48

Hoạt động Hội, Đội   Chính quyền địa phương có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền trẻ em thông qua trách nhiệm giải trình, phối hợp liên ngành giữa giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội và vai trò giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội.

Trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, việc thực hiện vai trò này có những thuận lợi và thách thức mới, yêu cầu có giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường năng lực thể chế, chuyển đổi số trong quản trị công, hoàn thiện cơ chế phối hợp, giám sát xã hội và thúc đẩy đối tác công - tư, bảo đảm thực thi hiệu quả quyền trẻ em trong bối cảnh mới.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính đến thăm học sinh, giáo viên Trường Hy Vọng, trường nội trú dành cho trẻ em không may mắn, mất cha mẹ do đại dịch COVID-19_Ảnh: TTXVN

 

Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoàn thiện thể chế quản trị hiện đại, linh hoạt, hướng đến phục vụ người dân hiệu quả hơn. Trong đó, việc tổ chức lại chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp với mục tiêu tinh gọn bộ máy, nâng cao tính tự chủ, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước là cải cách có ý nghĩa sâu rộng, vừa mang đến thuận lợi vừa mang đến những thách thức mới với việc bảo đảm quyền trẻ em. Một mặt, việc phân cấp, phân quyền mạnh mẽ giúp các địa phương chủ động trong việc hoạch định, thực thi và giám sát các chính sách vì trẻ em, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi vùng, miền. Mặt khác, mô hình quản trị mới đòi hỏi năng lực điều phối, trách nhiệm giải trình và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ giữa các lĩnh vực, như giáo dục, y tế, lao động - xã hội, tư pháp và bảo trợ xã hội. Nhất là trong bối cảnh Việt Nam triển khai Chiến lược quốc gia về trẻ em giai đoạn 2021 - 2030 và thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban Quyền trẻ em Liên hợp quốc, việc phân tích tác động của mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đối với bảo đảm quyền trẻ em càng có ý nghĩa.

Những thuận lợi bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp

Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đặt nền tảng pháp lý mới cho việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản trị công, tạo cơ sở thuận lợi cho việc thực hiện hiệu quả cam kết của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền trẻ em. Theo Điều 37 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và được tham gia vào các vấn đề liên quan đến mình. Quy định này thể chế hóa nội dung cơ bản của Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC, 1989) mà Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á phê chuẩn vào năm 1990, mà không bảo lưu điều khoản nào(1).

Thứ nhất, hoàn thiện cơ cấu thể chế và phân cấp quản trị phù hợp với nguyên tắc “gần dân, gần trẻ em”

Mô hình chính quyền địa phương 2 cấp được thiết lập theo Điều 110 Hiến pháp sửa đổi năm 2025 là bước tiến quan trọng hướng tới bộ máy hành chính tinh gọn, giảm tầng nấc trung gian, tăng cường tính chủ động và linh hoạt cho cấp cơ sở. Theo lý thuyết về “quản trị địa phương bảo đảm quyền con người”, quyền con người, trong đó có quyền trẻ em, được bảo đảm tốt nhất ở cấp xã, nơi chính quyền gần dân nhất, hiểu rõ nhu cầu cụ thể của cộng đồng dân cư và phản ứng kịp thời với các vấn đề phát sinh(2).

Mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hướng tới việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa cấp tỉnh và cấp xã, giúp giảm trùng lặp và đùn đẩy trách nhiệm, tạo điều kiện để các cơ quan chuyên môn cấp xã phối hợp hiệu quả hơn trong việc phát hiện, can thiệp và hỗ trợ trẻ em bị xâm hại gặp hoàn cảnh đặc biệt, đồng thời tăng cường tính giải trình và tính đáp ứng của chính quyền địa phương đối với trẻ em.

Thứ hai, củng cố quyền tham gia của trẻ em và cơ chế dân chủ cơ sở

Khoản 2, Điều 78, Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Hằng năm, hội đồng nhân dân các cấp chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm tổ chức gặp mặt, đối thoại, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của trẻ em về các vấn đề trẻ em quan tâm”. Quy định đã thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước về bảo đảm quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề liên quan, đồng thời cụ thể hóa nguyên tắc dân chủ cơ sở trong lĩnh vực trẻ em.

Thực tế trước khi Hiến pháp 2013 được sửa đổi, việc thực thi một số quy định về bảo đảm quyền trẻ em chưa thực sự hiệu quả. Hoạt động đối thoại, lắng nghe ý kiến trẻ em chủ yếu được tổ chức ở cấp tỉnh và cấp huyện, trong khi cấp xã - cấp gần gũi, trực tiếp nhất với trẻ em chưa được quan tâm. Nguyên nhân chủ yếu do tầng nấc hành chính còn nhiều, cơ chế phân cấp, phân quyền chưa rõ, khiến việc tiếp thu, phản hồi ý kiến của trẻ em chưa thực sự trở thành một quy trình thường xuyên trong hoạt động của chính quyền cơ sở. Hiến pháp sửa đổi năm 2025 thiết lập mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, rút ngắn tầng nấc hành chính và tinh gọn bộ máy giúp chính quyền cấp xã chủ động trong tổ chức các hoạt động đối thoại, tham vấn và tiếp nhận ý kiến trẻ em. Nguyện vọng, phản ánh và đề xuất, kiến nghị của trẻ em được truyền tải nhanh chóng, trực tiếp hơn đến cơ quan có thẩm quyền, tăng trách nhiệm giải trình và phản hồi của chính quyền.

Với việc mô hình chính quyền địa phương 2 cấp được xác lập, chính quyền cấp xã trở thành trung tâm hoạt động bảo đảm quyền tham gia của trẻ em, các địa phương chủ động tổ chức các diễn đàn, đối thoại, câu lạc bộ, mô hình “Hội đồng trẻ em” với sự phối hợp của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội đồng Đội Trung ương. Theo báo cáo của UNICEF Việt Nam (2023), các mô hình như “Hội đồng trẻ em”, “Diễn đàn trẻ em các cấp”, hay “Hộp thư Điều em muốn nói” đã trở thành không gian dân chủ hữu ích giúp trẻ em trình bày ý kiến, phản ánh các vấn đề về bạo lực học đường, ô nhiễm môi trường, hay quyền được vui chơi(3). Khi tầng nấc hành chính được rút ngắn và thẩm quyền của chính quyền cấp xã được tăng cường, những mô hình này cần được nhân rộng. Điều này phù hợp với nguyên tắc “trẻ em được lắng nghe” trong Điều 12 của CRC và tiếp cận quản trị “child-responsive governance” được khuyến nghị bởi UNICEF và UNDP(4).

Thứ ba, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát quyền trẻ em

Một trong những điểm đổi mới quan trọng của Hiến pháp sửa đổi năm 2025 là việc mở rộng và cụ thể hóa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị. Điều 9 Hiến pháp quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị, thể hiện ý chí, nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Quy định này làm rõ cơ sở hiến định cho chức năng giám sát và phản biện xã hội, mở rộng phạm vi đại diện, bao gồm cả việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhóm yếu thế, trong đó có trẻ em.

Từ trước đến nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã và đang đóng vai trò là cầu nối giữa người dân và Nhà nước, đặc biệt trong việc phát hiện, giám sát và phản ánh các hành vi xâm hại, bạo lực hoặc bóc lột trẻ em. Điều 77 Luật Trẻ em năm 2016, quy định: “Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em”, có trách nhiệm tổ chức các hoạt động lấy ý kiến, tổng hợp, phản hồi và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em. Cụ thể hóa quy định pháp luật, Trung ương Đoàn, Hội đồng Đội Trung ương đã triển khai nhiều giải pháp với các mô hình, cách làm sáng tạo, thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em; ban hành Đề án “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em giai đoạn 2023 - 2027” với các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể. Mô hình được tổ chức đoàn, đội triển khai hiệu quả, tạo diễn đàn để trẻ em bày tỏ ý kiến, nguyện vọng và tham gia vào các vấn đề liên quan đến trẻ em là mô hình “Hội đồng trẻ em” các cấp.

Từ năm 2016 - 2025 (trước khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp), cả nước thành lập 27 hội đồng trẻ em cấp tỉnh (trên 63 tỉnh, thành phố); 64 hội đồng trẻ em cấp huyện (trên 696 đơn vị hành chính cấp huyện); 26 hội đồng trẻ em cấp xã (trên 10.035 đơn vị hành chính cấp xã). Những số liệu trên cho thấy, mô hình tuy có tính hiệu quả cao nhưng độ bao phủ còn thấp. Trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, việc triển khai mô hình hội đồng trẻ em có nhiều thuận lợi hơn. Chính quyền cấp xã chủ động, trách nhiệm và linh hoạt hơn trong công tác bảo đảm quyền trẻ em. Khi quyền hạn và trách nhiệm được giao cụ thể, hội đồng trẻ em các cấp sẽ hoạt động thực chất hơn, gắn với việc giám sát, đề xuất và phản ánh trực tiếp các vấn đề trẻ em đến hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cùng cấp.

Mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đi vào vận hành, mạng lưới Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã, nhất là tổ chức đoàn, sẽ phát huy tốt hơn chức năng giám sát cộng đồng, bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm và tính tham gia của người dân trong thực thi các chính sách về trẻ em. Mặt trận và các tổ chức thành viên cũng có điều kiện để lồng ghép nội dung bảo vệ trẻ em vào các phong trào thi đua, các chương trình, như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em”, “Ngôi nhà an toàn - Trường học hạnh phúc”. Việc phát huy cơ chế giám sát xã hội giúp tăng tính tương tác hai chiều giữa chính quyền và cộng đồng, phù hợp với tiếp cận “quản trị đa chủ thể” trong bảo đảm quyền trẻ em.

Thứ tư, chuyển đổi số trong quản trị công và dịch vụ bảo vệ trẻ em

Tiến trình chuyển đổi số trong quản trị công được thúc đẩy mạnh mẽ trong giai đoạn 2021 - 2030 theo Chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Tiến trình này sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Việc ứng dụng công nghệ số sẽ giúp các cơ quan quản lý ở cấp cơ sở dễ dàng thu thập, xử lý và chia sẻ dữ liệu, đặc biệt là nhóm có hoàn cảnh đặc biệt hoặc nguy cơ cao, thông qua các nền tảng như Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về trẻ em. Nhờ đó, công tác giám sát, phòng ngừa và ứng phó với các vụ việc bạo lực, xâm hại hoặc bóc lột trẻ em nhanh chóng và minh bạch hơn. Chuyển đổi số còn tạo điều kiện để trẻ em tham gia nhiều hơn vào không gian công trực tuyến, thông qua các kênh phản hồi, tư vấn và tham vấn chính sách, như ứng dụng “Em vui an toàn”, Cổng thông tin “Bảo vệ trẻ em trực tuyến” của Cục Trẻ em(5). Các nền tảng này khi được kết hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, sẽ giúp chính quyền cấp xã có thể tiếp nhận phản ánh trực tiếp từ trẻ em hoặc người giám hộ, xử lý kịp thời và phối hợp hiệu quả với các cơ quan chức năng ở cấp tỉnh.

Thứ năm, nâng cao năng lực của chính quyền cơ sở, hợp tác công - tư và mở rộng nguồn lực xã hội

Mô hình chính quyền địa phương 2 cấp góp phần tăng cường tính chủ động, linh hoạt của chính quyền cơ sở trong quản lý và giải quyết các vấn đề dân sinh;  phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của từng cơ quan, đơn vị chuyên môn, nâng cao hiệu quả cơ chế liên thông giữa các lĩnh vực giáo dục, y tế, lao động - xã hội, giảm thiểu tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, nâng cao tính giải trình của cơ quan nhà nước đối với người dân, trong đó có trẻ em - nhóm đối tượng dễ bị tổn thương cần được bảo vệ đặc biệt.

Bên cạnh khuôn khổ thể chế, việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp mở ra không gian thuận lợi để huy động nguồn lực xã hội và hợp tác công - tư  (PPP) trong lĩnh vực bảo vệ và bảo đảm quyền trẻ em. Theo khuyến nghị của UNICEF và OECD (năm 2021), sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức chính trị - xã hội giúp nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ, đổi mới sáng tạo trong giáo dục, y tế và phúc lợi trẻ em, tăng tính bền vững về tài chính cho các chương trình ở cấp địa phương. Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều sáng kiến, như chương trình “Vì tầm vóc Việt”, do Tập đoàn TH phối hợp cùng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam triển khai; chương trình “Bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng”, do Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) triển khai, hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ. Trong bối cảnh vận hành mô hình quyền địa phương 2 cấp, chính quyền cấp xã sẽ được tăng cường vai trò điều phối, việc nhân rộng các mô hình đối tác công - tư thuận lợi hơn.     

Thách thức với việc bảo đảm quyền trẻ em trong bối cảnh hiện nay

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, việc thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp cũng đặt ra một số thách thức đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Những thách thức này không chỉ bắt nguồn từ hạn chế về nguồn lực và năng lực của các chủ thể liên quan, mà còn phản ánh các vấn đề cấu trúc trong phân quyền, phối hợp liên ngành và cơ chế giám sát quyền trẻ em.

Thứ nhất, quá tải năng lực và hạn chế về nhân sự chuyên trách cấp xã

Thách thức đầu tiên trong bảo đảm quyền trẻ em khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, là sự quá tải về khối lượng công việc và thiếu hụt nhân sự chuyên môn ở cấp xã. Phần lớn nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và quản lý thông tin về trẻ em tập trung tại cấp xã. Tuy nhiên, hơn 70% số cán bộ làm công tác trẻ em ở cấp xã hiện đang kiêm nhiệm, thường là cán bộ phụ trách văn hóa - xã hội hoặc công tác đoàn thể(6). Nhiều người chưa được đào tạo về tâm lý học, công tác xã hội hoặc kỹ năng quản lý tình huống, trong khi phải xử lý các vụ việc ngày càng phức tạp, như xâm hại trẻ em trên môi trường mạng, bạo lực học đường hoặc lao động trẻ em... Sự thiếu hụt nhân sự chuyên trách khiến quá trình phát hiện và can thiệp sớm các vụ việc vi phạm quyền trẻ em thường chậm trễ hoặc mang tính hình thức. Ở những địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, cán bộ phụ trách còn phải đảm nhiệm nhiều chương trình mục tiêu khác, dẫn đến tình trạng “mỏng dịch vụ - dày thủ tục”, ảnh hưởng đến khả năng phản ứng nhanh và hỗ trợ tâm lý - xã hội cho trẻ em.

Thứ hai, nguy cơ đứt gãy trong phối hợp liên ngành

Việc rút gọn tầng nấc quản lý là xu hướng hợp lý để tinh gọn bộ máy hành chính, song trong giai đoạn quá độ, có thể làm suy giảm tính liên thông và phối hợp giữa các ngành. Các đầu mối giáo dục, y tế, công an, lao động - xã hội, tư pháp, đoàn thể thanh niên và phụ nữ cần có thời gian điều chỉnh lại quy trình, nhiệm vụ và việc liên hệ, phối hợp hoạt động. Khi chưa có cơ chế liên thông dữ liệu thống nhất, các vụ việc bạo lực, xâm hại hoặc bóc lột trẻ em có nguy cơ bị chậm xử lý, thậm chí bị bỏ sót.

Theo một báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (nay là Bộ Nội vụ) (năm 2023), 45% số vụ việc xâm hại trẻ em xảy ra ở các địa phương quy trình phối hợp chưa rõ ràng hoặc thiếu đầu mối chịu trách nhiệm(7). Trong khi đó, mô hình “liên ngành bảo vệ trẻ em” do UNICEF khuyến nghị đòi hỏi sự chia sẻ thông tin và phân quyền trách nhiệm cụ thể giữa các bên. Như vậy, nếu không được chuẩn hóa bằng quy trình vận hành, phối hợp rõ ràng và cơ sở dữ liệu liên thông, mô hình chính quyền địa phương 2 cấp dẫn tới “khoảng trống trách nhiệm” trong bảo vệ trẻ em ở cấp cơ sở.

Thứ ba, gián đoạn các mô hình trợ giúp và mạng lưới cộng đồng

Một hệ quả khác của quá trình tinh gọn bộ máy và sáp nhập đơn vị hành chính là nguy cơ gián đoạn hoặc thu hẹp quy mô các mô hình bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng, vốn được xem là trụ cột trong cách tiếp cận “tăng cường hệ thống bảo vệ trẻ em” của Liên hợp quốc. Ở nhiều địa phương, mạng lưới cộng tác viên bảo vệ trẻ em, các nhóm phụ nữ, đoàn thanh niên và tình nguyện viên đóng vai trò then chốt trong phát hiện sớm và hỗ trợ trẻ em bị tổn thương. Khi sáp nhập xã hoặc cắt giảm đầu mối, mạng lưới này sẽ bị gián đoạn về tổ chức và nguồn kinh phí, dẫn đến tần suất hoạt động sẽ giảm. Theo nghiên cứu của Save the Children (2022), hơn 30% mô hình “Ngôi nhà an toàn”, “Trường học hạnh phúc”, “Câu lạc bộ quyền trẻ em” có thể bị đình trệ khi có thay đổi nhân sự hoặc khi nguồn tài trợ địa phương bị cắt giảm(8). Nhất là đối với khu vực công nghiệp và nông thôn, việc thiếu ổn định về nhân sự dẫn đến mất kết nối giữa chính quyền, trường học và cộng đồng, làm suy giảm tính bền vững của các sáng kiến bảo vệ trẻ em.

Thứ tư, hạn chế về nguồn lực tài chính và năng lực chuyển đổi số

Thực tế ở nước ta hiện nay, nguồn lực tài chính là điểm nghẽn thường trực trong công tác bảo đảm quyền trẻ em ở cấp cơ sở. Các hoạt động truyền thông, tư vấn tâm lý, đối thoại với trẻ em thường chỉ được lồng ghép trong các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, y tế, giáo dục hoặc phát triển nông thôn, chưa có khoản ngân sách ổn định riêng cho trẻ em. Việc này khiến chính quyền cấp xã khó chủ động bố trí chi thường xuyên, về năng lực chuyển đổi số của cán bộ cơ sở còn yếu. Mặc dù Việt Nam đã triển khai Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về trẻ em, nhưng việc cập nhật dữ liệu từ cơ sở lên cấp tỉnh còn chậm, nhiều xã không có cán bộ đủ năng lực kỹ thuật để vận hành. Hạ tầng công nghệ thông tin ở vùng sâu, vùng xa chưa đồng bộ, kết nối internet yếu, khiến việc báo cáo, giám sát và chia sẻ dữ liệu giữa các ngành gần như không thể thực hiện theo thời gian thực. Ở nhiều địa phương còn tồn tại một khoảng cách với mục tiêu của Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “số hóa quản trị công” và “dữ liệu mở phục vụ người dân”(9).

Thứ năm, bất cập trong cơ chế giám sát và bảo đảm quyền tham gia của trẻ em

Nhiều địa phương vẫn coi trẻ em tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan không phải là công cụ giám sát và phản biện chính sách. Các cuộc đối thoại giữa trẻ em và chính quyền địa phương đôi khi còn hình thức, thiếu quy trình phản hồi, giám sát thực thi khuyến nghị. Hội đồng nhân dân cấp xã ít khi đưa kết quả đối thoại vào chương trình giám sát chuyên đề, nên quyền tham gia của trẻ em bị “hành chính hóa”, tồn tại trên văn bản.

Các nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng, nguy cơ “ảnh hưởng không có sự tham gia” là biểu hiện phổ biến của sự tham gia hình thức, không tạo thay đổi thực chất cho nhóm yếu thế(10). Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ nếu thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm cụ thể giữa các bên. Ngoài ra, việc duy trì các mô hình, như “Hội đồng trẻ em”, “Diễn đàn trẻ em”, “Hộp thư Điều em muốn nói”… đều phụ thuộc nhiều vào ngân sách địa phương, đội ngũ phụ trách đoàn, đội và nền tảng công nghệ thân thiện với trẻ em.

Thứ sáu, tính bất bình đẳng vùng, miền và rủi ro loại trừ số

Việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tiềm ẩn nguy cơ gia tăng bất bình đẳng giữa các địa phương. Các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường thiếu cán bộ có chuyên môn và khó tiếp cận công nghệ số, trong khi nhu cầu bảo vệ trẻ em ở những vùng này thường cao hơn, do tỷ lệ hộ nghèo, di cư và tình trạng tảo hôn lớn(11). Nếu không có cơ chế hỗ trợ đặc thù, việc áp dụng đồng loạt một chính sách về trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp có thể khiến việc bảo vệ trẻ em ở một số nhóm yếu thế bị ảnh hưởng.

Bảo đảm quyền trẻ em khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp

Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2025 đã tạo ra khung thể chế mới cho quá trình tổ chức lại chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp. Cùng với cơ chế tinh gọn bộ máy, tăng tính tự chủ và phân cấp mạnh mẽ hơn, Nhà nước Việt Nam cũng khẳng định cam kết thúc đẩy và bảo đảm quyền trẻ em. Tuy nhiên, để những cam kết này đi vào thực chất, cần triển khai đồng bộ các giải pháp về thể chế, nguồn lực, quản trị công và cơ chế giám sát, phản biện xã hội.

 

Hành động vì con người cần bắt đầu từ việc bảo đảm đầy đủ nhất quyền và lợi ích của trẻ em hôm nay, nền tảng cho một Việt Nam phát triển bền vững, bao trùm trong tương lai_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

 

Một là, tăng cường năng lực, nguồn lực và đẩy mạnh số hóa quản trị công ở cấp xã

Trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, chính quyền cấp xã trở thành “điểm chạm đầu tiên” giữa Nhà nước và người dân, đồng thời là cấp hành chính trực tiếp chịu trách nhiệm trong việc phát hiện những vấn đề nảy sinh, bảo vệ và hỗ trợ trẻ em. Do đó, nâng cao năng lực thể chế và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cấp xã là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền trẻ em được thực thi thực chất.

Theo đó, cần bố trí cán bộ chuyên trách về công tác trẻ em thay vì kiêm nhiệm, đồng thời ban hành khung năng lực cho vị trí này. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách cần tập trung vào các kỹ năng về quản lý vụ việc, tham vấn tâm lý, ứng phó khủng hoảng, kỹ năng số và truyền thông cộng đồng. Cần thiết lập cơ chế tài chính ổn định và linh hoạt, bởi thực tế hiện nay, kinh phí cho bảo vệ trẻ em ở cấp cơ sở chủ yếu lồng ghép trong các chương trình mục tiêu quốc gia. Việc hình thành quỹ bảo vệ trẻ em cấp địa phương, có cơ chế huy động nguồn lực xã hội hóa từ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sẽ góp phần tăng tính bền vững tài chính cho hoạt động này.

Chuyển đổi số trong quản trị công phải được xem là đòn bẩy quan trọng. Cần xây dựng hệ thống dữ liệu trẻ em liên thông giữa các ngành (lao động - xã hội, giáo dục, y tế, công an, tư pháp), kết nối trực tiếp với Tổng đài quốc gia 111, qua đó, cho phép theo dõi thời gian thực về các vụ việc bạo lực, xâm hại và hỗ trợ chính sách dựa trên dữ liệu. Việc phát triển nền tảng số thân thiện với trẻ em, giúp trẻ hoặc người giám hộ có thể phản ánh, yêu cầu trợ giúp trực tuyến, cũng là một hướng đi phù hợp với Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030.

Hai là, thiết lập cơ chế điều phối ngang và phát huy vai trò các tổ chức chính trị - xã hội

Hiến pháp sửa đổi năm 2025 đã nhấn mạnh yêu cầu tăng cường phối hợp liên ngành, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quản lý xã hội. Đây là cơ sở để xây dựng cơ chế điều phối ngang ở cấp cơ sở. Mỗi địa phương cần thành lập ban công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em liên ngành, với sự tham gia của đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, ngành nội vụ, lao động, xã hội, y tế, giáo dục và công an. Ban này có chức năng điều phối hành động, chia sẻ dữ liệu, thống nhất quy trình can thiệp và phản hồi vụ việc.

Theo kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh và thành phố Đà Nẵng - hai địa phương thí điểm cơ chế điều phối đa ngành do UNICEF hỗ trợ - việc thiết lập “đầu mối phối hợp liên ngành về bảo vệ trẻ em” giúp rút ngắn thời gian xử lý vụ việc, từ 15 ngày xuống còn dưới 5 ngày, đồng thời tăng tỷ lệ trẻ em được hỗ trợ tâm lý sau can thiệp từ 40% lên 70%(12).

Ngoài ra, việc tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội mở rộng mạng lưới cộng đồng. Đoàn thanh niên và hội liên hiệp phụ nữ, với mạng lưới sâu rộng đến tận thôn, bản, đóng vai trò “vệ tinh cộng đồng”, đảm nhận các hoạt động truyền thông, phát hiện sớm và hỗ trợ trẻ em.

Ba là, hoàn thiện cơ chế giám sát và phản biện xã hội về quyền trẻ em

Điều 9 Hiến pháp sửa đổi năm 2025 đã khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc giám sát, phản biện xã hội và phản ánh ý kiến nhân dân đến cơ quan nhà nước. Đây là cơ sở hiến định quan trọng để mặt trận và các tổ chức thành viên mở rộng giám sát lĩnh vực quyền trẻ em. Vì vậy, cần ban hành hướng dẫn thống nhất về nội dung, hình thức và quy trình giám sát quyền trẻ em, trong đó quy định rõ trách nhiệm phản hồi của cơ quan quản lý. Mặt trận chỉ đạo các đoàn thể xây dựng bộ chỉ số giám sát độc lập, gồm 5 nhóm tiêu chí chính: (i) mức độ tiếp cận dịch vụ cơ bản; (ii) hiệu quả công tác bảo vệ và can thiệp; (iii) quyền tham gia của trẻ em; (iv) mức độ minh bạch, trách nhiệm giải trình; (v) sự hài lòng của người dân(13). Các kết quả giám sát cần được công khai định kỳ, lồng ghép vào báo cáo của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Đồng thời, khuyến khích mô hình “giám sát cùng trẻ em”, mời trẻ em trực tiếp tham gia vào các cuộc khảo sát, diễn đàn, hoặc giám sát cộng đồng.

Bốn là, mở rộng xã hội hóa và phát triển mô hình đối tác công - tư (PPP) trong cung cấp dịch vụ thân thiện với trẻ em

Cần đẩy mạnh xã hội hóa và xây dựng mô hình đối tác công - tư trong cung cấp dịch vụ xã hội thân thiện với trẻ em. Chính phủ xem xét ban hành cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý, phục hồi chức năng, chăm sóc sức khỏe tinh thần, và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. Các doanh nghiệp công nghệ phát triển hệ sinh thái số an toàn cho trẻ em, với các ứng dụng phản ánh, tư vấn, tương tác và học tập trực tuyến được bảo mật(14).

Mô hình hợp tác giữa Bộ Thông tin và Truyền thông - Google - UNICEF trong sáng kiến “Vì một internet an toàn hơn cho trẻ em Việt Nam” (2021 - 2024) là một ví dụ điển hình, cho thấy sức mạnh của hợp tác công - tư trong giáo dục kỹ năng số và bảo vệ trẻ em trực tuyến(15). Các tổ chức xã hội, như Save the Children, Plan International, World Vision cũng là đối tác chiến lược trong đào tạo kỹ năng, vận hành trung tâm dịch vụ thân thiện và nâng cao năng lực cộng đồng(16).

Tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng, Nhà nước cần xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế kiểm định dịch vụ xã hội cho trẻ em do khu vực tư nhân cung cấp, đồng thời thiết lập hệ thống giám sát độc lập, bảo đảm mọi hoạt động đều hướng tới lợi ích tốt nhất cho trẻ em.

Năm là, thúc đẩy đổi mới thể chế và hợp tác quốc tế

Bảo đảm quyền trẻ em cần được đặt trong khuôn khổ cải cách thể chế và hội nhập quốc tế sâu rộng. Việt Nam tiếp tục triển khai Chiến lược quốc gia về trẻ em giai đoạn 2021 - 2030, gắn với kế hoạch hành động quốc gia về quyền con người, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về mô hình chính quyền địa phương thân thiện với trẻ em. Việc tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế (UNICEF, UNDP, ILO) không chỉ giúp nâng cao năng lực thể chế mà còn mở rộng nguồn lực kỹ thuật, tài chính và sáng kiến về chuyển đổi số, bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng và giáo dục hòa nhập(17).

Hiến pháp sửa đổi năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khi mở rộng không gian pháp lý cho việc dân chủ hóa quản trị công, củng cố nguyên tắc “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, tạo cơ sở bảo đảm hiệu quả hơn quyền con người, bao gồm quyền trẻ em trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong việc thực hiện Hiến pháp sửa đổi, trẻ em - những công dân đặc biệt và là tương lai của quốc gia vẫn được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển con người toàn diện và phát triển bền vững.

Để những cam kết hiến định về bảo đảm quyền trẻ em trở thành hiện thực trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, cần tiếp tục gắn thi hành Hiến pháp với cải cách thể chế, phân cấp, phân quyền hợp lý và nâng cao năng lực quản trị của chính quyền cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, lấy người dân và trẻ em làm trung tâm phục vụ. Cần tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng, gia đình và trẻ em trong giám sát, phản biện, tham gia xây dựng chính sách là điều kiện quan trọng để hình thành văn hóa quản trị nhân văn và trách nhiệm giải trình thực chất. Đặc biệt, cần chuyển từ tư duy “bảo vệ” sang “trao quyền” cho trẻ em, xem đó không chỉ là thước đo của hiệu quả dân chủ cơ sở, mà còn là tiêu chí thể hiện bản chất nhân văn, tiến bộ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hành động vì con người cần bắt đầu từ việc bảo đảm đầy đủ nhất quyền và lợi ích của trẻ em hôm nay, nền tảng cho một Việt Nam phát triển bền vững, bao trùm trong tương lai./.

--------------------

(1) United Nations: Convention on the Rights of the Child (Tạm dịch: Công ước về Quyền trẻ em),  New York, 1989
(2) United Nations Development Programme (UNDP): Governance for Human Rights: Integrating Human Rights Principles into Local Governance (Tạm dịch: Quản trị vì quyền con người: Lồng ghép các nguyên tắc quyền con người vào quản trị địa phương), New York, 2012
(3) UNICEF Viet Nam: Child Participation and Local Governance Report 2023 (Tạm dịch: Báo cáo về sự tham gia của trẻ em và quản trị địa phương, năm 2023), Hà Nội, 2023
(4) UNICEF: Child-Friendly Local Governance (Tạm dịch: Chính quyền địa phương thân thiện với trẻ em), New York, 2021
(5) Cục Trẻ em, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội: Báo cáo chuyên đề về bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng, năm 2023, Hà Nội, 2023
(6) UNICEF Việt Nam: Child Protection System Mapping and Assessment Report 2023 (Tạm dịch: Báo cáo đánh giá và lập bản đồ hệ thống bảo vệ trẻ em năm 2023), Hà Nội, 2023
(7) Bộ Lao động, Thương binh và xã hội: Báo cáo phòng, chống lạm dụng trẻ em năm 2023, Hà Nội, 2023
(8) OECD & UNICEF: Public - Private Partnerships for Children: Global Review 2021 (Tạm dịch: Quan hệ đối tác công tư vì trẻ em: Đánh giá toàn cầu năm 2021), OECD Publishing, Paris, 2021
(9) Bộ Thông tin và Truyền thông: Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội, 2020
(10) Hart, Roger A: Children’s Participation: From Tokenism to Citizenship (Tạm dịch: Sự tham gia của trẻ em: Từ chủ nghĩa hình thức đến quyền công dân), Florence, 1992
(11) UNDP Viet Nam: Human Development Report 2024: Reducing Regional Inequalities in Social Services (Tạm dịch: Báo cáo phát triển con người năm 2024: Giảm bất bình đẳng khu vực trong dịch vụ xã hội), Hà Nội, 2024
(12) UNICEF Viet Nam: Multi-Sectoral Coordination Model for Child Protection: Lessons from Quang Ninh and Da Nang (Tạm dịch: Mô hình phối hợp đa ngành bảo vệ trẻ em: Bài học từ Quảng Ninh và Đà Nẵng), Hà Nội, 2022
(13) Vietnam Fatherland Front: Handbook on Social Supervision and Feedback in Child Rights (Tạm dịch: Sổ tay Giám sát xã hội và phản hồi về quyền trẻ em), Hà Nội, 2024
(14) OECD & UNICEF: Public - Private Partnerships for Children: Global Review 2021 (Tạm dịch: Quan hệ đối tác công tư vì trẻ em: Đánh giá toàn cầu năm 2021), tlđd
(15) UNICEF, Google và Bộ Thông tin và Truyền thông: Safer Internet for Children in Viet Nam Initiative: Progress Report 2023 (Tạm dịch: Sáng kiến ​​internet an toàn hơn cho trẻ em tại Việt Nam: Báo cáo tiến độ năm 2023), Hà Nội, 2023
(16) Save the Children: Child-Friendly Service Delivery Models in Viet Nam (Tạm dịch: Mô hình cung cấp dịch vụ thân thiện với trẻ em tại Việt Nam), Hà Nội, 202
(17) UNDP Việt Nam: Governance for Human Rights: Integrating Child Rights into Local Governance (Tạm dịch: Quản trị vì quyền con người: Lồng ghép quyền trẻ em vào quản trị địa phương), Hà Nội, 2024

------------------

Đồng chí Nguyễn Phạm Duy Trang - Bí thư BCH Trung ương Đoàn, Chủ tịch Hội đồng Đội Trung ương
Đồng chí Nguyễn Thị Hồng Hảo- Chuyên viên Ban công tác Thanh thiếu nhi Trung ương Đoàn
 
 
Theo TCCS