Chủ tịch Hồ Chí Minh - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam
08:21 19/05/2020 7906
Công tác giáo dục 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2020) – người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa được thế giới ngưỡng mộ và tôn vinh.
Đây là dịp để chúng ta hiểu rõ hơn tầm vóc tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của một con người suốt đời toàn tâm toàn ý cống hiến cho đất nước, cho nhân dân; là dịp để chúng ta khẳng định tâm nguyện thực hiện những điều Người còn dặn lại trong sự nghiệp phát triển đất nước và con người hôm nay và mai sau.
Truyền thống tốt đẹp kết tinh trong một con người
Hồ Chí Minh(1) sinh ra và trải qua tuổi niên thiếu trên quê hương Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nơi dải đất miền trung phải chịu đựng khí hậu khắc nghiệt với những đợt gió nóng, những trận mưa bão lớn, thường xuyên chịu cảnh hạn hán rồi lại ngập úng, lũ lụt. Sống trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, người dân xứ Nghệ đã tự rèn cho mình một truyền thống quý báu. Đó là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, là tinh thần đoàn kết chiến đấu kiên cường trong chống xâm lược và kiên trì bền bỉ chống thiên tai, là tình làng nghĩa xóm đậm đà bền chặt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam
Di tích quê nội Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Làng Sen.
Sinh ra và lớn lên trên vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh, Hồ Chí Minh được kế thừa và hấp thụ những tinh hoa của truyền thống dân tộc và quê hương ngay từ tuổi thiếu niên, từ trong gia đình. Tuổi thơ Hồ Chí Minh đã chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, cuộc sống ngày càng cơ cực của người dân Nghệ - Tĩnh, chứng kiến những sự khủng bố đẫm máu và áp bức bóc lột ngày càng nặng nề của chính quyền thực dân và tay sai. Trong những năm tháng Người lớn lên trên mảnh đất quê hương, tinh thần bất diệt của khởi nghĩa Hương Khê vẫn còn vang vọng. Ý chí đấu tranh quật cường và tinh thần hy sinh anh dũng của các chí sĩ trong phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục cùng các phong trào yêu nước kháng Pháp như ngọn lửa âm ỉ vẫn cháy trong lòng những người yêu nước Việt Nam.
Sự hun đúc của truyền thống đất nước, quê hương, gia đình lại được phát huy bởi những tố chất cá nhân, riêng của Hồ Chí Minh. Đó là một nhân cách giàu lòng yêu nước, thương yêu nhân dân; một vốn kiến thức văn hóa Đông - Tây được tích hợp phong phú và sự nhạy bén trước những tri thức mới. Sự hiểu biết của Hồ Chí Minh được củng cố, động viên bởi một ý chí kiên cường và nghị lực phi thường trước những khó khăn thử thách của một người thanh niên đầy hoài bão. Tất cả những điều đó là nền tảng tinh thần vững chắc để Hồ Chí Minh vượt qua những chặng đường đầy chông gai thử thách, quyết tâm thực hiện lý tưởng của mình: Giành độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Mặc dù theo học chữ Hán từ nhỏ nhưng Hồ Chí Minh sớm tiếp xúc và bị thuyết phục bởi những tư tưởng tiến bộ của cuộc Cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Và Người đã đặt câu hỏi: Tại sao người Pháp làm được như vậy? Hồ Chí Minh thấy rằng: “Phải đi ra ngoài, xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Khi nhiều người đang hướng sự ngưỡng mộ của mình về phương Đông với Nhật Bản, một đế quốc mới ở châu Á đã chiến thắng nước Nga sa hoàng năm 1905, hay ngưỡng vọng bác sĩ Tôn Dật Tiên với chủ nghĩa Tam dân của ông đang làm rung chuyển Trung Hoa bằng cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911, thì Hồ Chí Minh tìm đường sang phương Tây, đến nước Pháp, nơi đã tuyên bố về quyền “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” để tìm hiểu thực chất đó là gì.
Đi tìm con đường cứu nước
Ngày 5-6-1911, khi ra đi tìm một con đường mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ nung nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đối với Hồ Chí Minh, mọi con đường đều không có ý nghĩa gì nếu không nhằm mục đích đem lại độc lập - tự do cho dân tộc, quyền làm người và ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân là nguồn sức mạnh nâng bước chân, là ngọn lửa hồng sưởi ấm tinh thần Hồ Chí Minh trên những chặng đường bôn ba. Trong những năm 1911-1917, Hồ Chí Minh (với tên là Văn Ba) đã thật sự sống cuộc sống của một người lao động trên nhiều đất nước ở các lục địa Á, Âu, Phi, Mỹ. Qua những năm tháng đó, Hồ Chí Minh đã tích lũy cho mình một vốn sống thực tiễn phong phú, đồng thời qua đó Người cũng thu nhận thêm nhiều tri thức từ những nền văn hóa của các dân tộc. Tất cả những điều đó đã hun đúc, rèn luyện nên bản lĩnh của một nhà cách mạng chuyên nghiệp sau này. Hồ Chí Minh trở thành một trong số ít những chiến sĩ cách mạng giàu kinh nghiệm thực tiễn nhất của phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa những năm đầu thế kỷ 20.
Tháng 6-1920, Hồ Chí Minh đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin được đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo) và đã có được lời giải đáp cho câu hỏi khát khao đã cháy trong lòng mình hàng chục năm qua. Luận cương của V.I. Lê-nin đã gây cho Hồ Chí Minh một cảm xúc mạnh mẽ. Hồ Chí Minh đã tìm thấy sự ủng hộ và nguồn sức mạnh để vươn tới cái đích của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân, từ một người yêu nước nhiệt thành, Hồ Chí Minh đã đi một con đường hoàn toàn khác với những con đường các nhà cách mạng “đàn anh” đã đi. Kết quả của hoạt động thực tiễn và việc tiếp nhận lý luận ban đầu càng làm sáng tỏ hơn con đường để cứu dân tộc mà Người đang đi tìm và dẫn tới Quyết định quan trọng thứ hai sau quyết định sang phương Tây tìm đường cứu nước. Đó là quyết định đưa cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng của Lê-nin.
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh đã vượt trước những quan niệm cứu nước đương thời. Hồ Chí Minh không đi theo lối mòn bảo thủ mà có tính phê phán, hướng tới mục tiêu cách mạng triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Tư tưởng yêu nước truyền thống, khát vọng cứu nước mang thêm những yếu tố mới đi theo Hồ Chí Minh trong suốt những năm bôn ba đã gặp chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Sự gặp gỡ này phản ánh những nhu cầu đang đặt ra của lịch sử là xác định một con đường đúng đắn cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam nói riêng và các dân tộc thuộc địa nói chung. Nghiên cứu, tiếp thu những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lê-nin về cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và bổ sung những luận điểm mới để học thuyết này phù hợp với thực tiễn phong trào cách mạng thuộc địa và Việt Nam. Người cho rằng cần phải bổ sung vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin những vấn đề của các dân tộc phương Đông mà trong thế kỷ 19 do những điều kiện lịch sử, Mác và Ăng-ghen chưa thể có được hoặc chưa phát triển một cách đầy đủ.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Tua (12-1920)
Những điểm cần bổ sung đó là thực tiễn của phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân xâm lược ở các nước phương Đông và Việt Nam nói riêng. Người đã phát hiện ra nội dung lớn mà các tác phẩm lý luận thời đó ít đề cập: Đó là sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính và tinh thần yêu nước tiềm tàng trong mỗi cá nhân được bồi đắp lâu dài từ truyền thống. Sức mạnh này thể hiện sinh động ở Việt Nam trong các phong trào chống Pháp xâm lược, thu hút mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp, giai cấp. Hồ Chí Minh cho rằng điều cốt yếu là phải huy động sức mạnh của toàn dân tộc.
Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” và nếu phát động - phát huy được nguồn “động lực lớn” đó thì công cuộc giải phóng dân tộc mới giành được thắng lợi.
Với luận điểm nhất quán “Cách mệnh muốn thành công trước hết phải có Đảng cách mệnh”; “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”, Hồ Chí Minh đã từng bước chuẩn bị về chính trị và tư tưởng, huấn luyện cán bộ và xây dựng tổ chức - những tiền đề cần thiết để hình thành một Đảng cách mệnh chân chính, vững mạnh và đủ khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc. Những cán bộ cách mạng trẻ tuổi đầy nhiệt huyết được Người huấn luyện ở Quảng Châu trở về nước hoạt động hăng hái, sôi nổi đã trực tiếp dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của cuộc đấu tranh ở Việt Nam trong những năm nửa sau thập niên 1920. Các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam đã ra đời trong cuộc đấu tranh đó. Cuối tháng 12-1929, Hồ Chí Minh rời Xiêm đến Hồng Công (Trung Quốc) với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đại biểu dự Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Điều lệ tóm tắt, Chương trình vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo. Những văn kiện này hợp thành nội dung Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được khẳng định
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối của cách mạng Việt Nam, đó là tuyên bố về sự lựa chọn con đường phát triển cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới ra đời. Nhiệm vụ giành lại độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, nô lệ là nhiệm vụ mang ý nghĩa cấp bách, sống còn được đặt trước nhiệm vụ đấu tranh giai cấp. Trong cuộc đấu tranh này Đảng cần tập hợp được khối lực lượng đông đảo nhất của toàn dân, huy động được sức mạnh đoàn kết to lớn nhất của dân tộc và thời đại mới bảo đảm giành được thắng lợi.
Tác phẩm Đường Kách mệnh (1927) của Nguyễn Ái Quốc - Hiện vật tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Vì nhiều nguyên nhân nên đã có một giai đoạn những luận điểm sáng tạo về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh đã bị Quốc tế Cộng sản coi là “hữu” khuynh, dân tộc chủ nghĩa, quốc gia chủ nghĩa, coi nhẹ đấu tranh giai cấp... Vượt qua những thử thách, Hồ Chí Minh kiên trì giữ vững quan điểm, tư tưởng của mình. Trong bối cảnh có nhiều biến động sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hồ Chí Minh tìm đường về nước và từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941) dưới sự chủ trì của Người, Hồ Chí Minh đã trực tiếp cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Kể từ đó, “tư tưởng của Người và đường lối của Đảng là thống nhất và có những bước phát triển mới, toàn diện, hoàn chỉnh, đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam” (2). Ngày 19-5-1941, giữa vùng núi rừng Pắc Bó (Cao Bằng), theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh ra đời. Đây là kết quả của một quá trình vận động cách mạng. Tư tưởng độc lập, tự do, chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (năm 1930), trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, trong Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh đã được hiện thực hóa ngày càng mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh. Đảng đã đoàn kết được đông đảo quần chúng, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm mục tiêu cao nhất: Độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam cũng mang về những nhận định mới về tình hình thế giới và đề ra sách lược đối ngoại cho cách mạng Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai đang lan rộng. Người đã nhận định cuộc chiến tranh sẽ tạo những cơ hội quý báu cho công cuộc giải phóng của nhân dân Việt Nam. Người cũng trực tiếp xây dựng nhiều mối quan hệ với các nước đồng minh chống phát-xít, tạo ra những tiền đề cho việc xác lập vị thế của nước Việt Nam độc lập trên trường quốc tế sau này.
Theo lời kêu gọi của Người, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đứng lên tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, giành Chính quyền về tay nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã phát huy sức mạnh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là một trong những nhân tố quyết định làm nên thắng lợi trọn vẹn, nhanh chóng và ít đổ máu của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (3). Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ của Người đã mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên Độc lập - Tự do.
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
Khoảng thời gian từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - ngày 2-9-1945 - đến khi cả dân tộc Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ bảo vệ nền độc lập mới giành được - ngày 19-12-1946 - là một giai đoạn lịch sử khá đặc biệt. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng trong điều kiện vừa có hòa bình vừa phải kháng chiến, vừa đấu tranh chính trị, ngoại giao vừa phải tích cực kìm chân quân Pháp xâm lược ở phía nam, vừa phải chống lại những âm mưu phá hoại và lật đổ của bọn phản động ở phía bắc, vừa phải chăm lo bồi dưỡng sức dân, xây dựng cuộc sống mới, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện (ngày 19-9-1954) với các chiến sĩ Đại đoàn Quân tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô.
Trước tình thế khó khăn, hiểm nghèo của chính quyền cách mạng non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết, đoàn kết toàn dân, huy động tối đa mọi nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc để bảo vệ nền độc lập mới được giành lại. Khối lực lượng đại đoàn kết này là nguồn sức mạnh to lớn để chúng ta bảo vệ và xây dựng thành công chính quyền cách mạng. Toàn thể nhân dân Việt Nam đã đoàn kết, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất cả đều hướng về cuộc đấu tranh của dân tộc và bằng cách này hay cách khác đã đóng góp phần mình cho cuộc đấu tranh đó. Thành quả hiện hữu của sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc những năm 1945-1946 của Đảng là chính quyền cách mạng đứng vững giữa vòng vây kẻ thù, khối đại đoàn kết toàn dân trong các tổ chức quần chúng được mở rộng và củng cố trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt, quân đội nhân dân được xây dựng ngày càng lớn mạnh. Thành quả không thể đo đếm bằng số, không nhìn thấy được bằng mắt là tinh thần sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc đã được thổi bùng lên và đưa vào cuộc chiến đấu.
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng”. Nhưng khi những thế lực thực dân hiếu chiến Pháp quyết đặt lại ách cai trị thực dân lên đất nước Việt Nam, một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cương quyết khẳng định quyết tâm của cả dân tộc: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (4). Theo Lời kêu gọi của Người, mỗi người Việt Nam yêu nước đều sẵn sàng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cả dân tộc vững vàng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với niềm tin thắng lợi dù có phải trải qua nhiều gian khổ hy sinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng huy hiệu cho các chiến sĩ tiêu biểu trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (19-5-1954)
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập là sự tiếp nối của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hai nhiệm vụ Kháng chiến và Kiến quốc nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ tàn tích phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, “làm cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, dân chủ và tự do, phú cường, tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đó là nhiệm vụ của Đảng Lao động Việt Nam được nêu trong Chính cương của Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ II, tháng 2-1951.
Trong cuộc “kháng chiến - kiến quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính quyền và xây dựng đội ngũ cán bộ. Người vạch rõ và kịch liệt phê phán những khuyết điểm, những biểu hiện của căn bệnh quan liêu, tham nhũng mà một số cán bộ của chính quyền mới đã sớm mắc phải. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ và cả cho đến cuối đời, đây vẫn là chủ đề được Người dành nhiều sự quan tâm.
Không chỉ góp phần hoạch định đường lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn góp phần to lớn trong việc tổ chức thực hiện đường lối kháng chiến. Người đưa ra sáng kiến phát động phong trào Thi đua ái quốc, biến quyết tâm và tinh thần hăng hái của toàn dân thành hành động để khắc phục những thiếu thốn về vật chất, biến đường lối kháng chiến của Đảng thành hành động chiến đấu, lao động của hàng triệu quần chúng trên tất cả các mặt trận để đẩy nhanh kháng chiến đến thắng lợi.
Người cũng đi tiên phong trong việc tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn quốc tế với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Cuộc kháng chiến của chúng ta từ thế bị bao vây, cô lập đã giành được sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Nhiều quan hệ ngoại giao cấp Nhà nước được thiết lập đã tăng thêm đáng kể nguồn sức mạnh cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được tiếp tục phát triển, hoàn thiện và phát huy tác dụng dẫn đường định hướng cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, trở thành cơ sở cho đường lối kháng chiến của Đảng, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Sau Hiệp định Genève (tháng 7-1954), Mỹ dần thay chân Pháp để thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Dân tộc Việt Nam bước vào cuộc đối đầu với thế lực đế quốc hùng mạnh nhất để bảo vệ phẩm giá dân tộc và những giá trị cao đẹp của mình. Đó là những quyền cơ bản của dân tộc, của con người mà không một thế lực nào có thể xâm phạm.
Ý chí độc lập tự do cuối cùng sẽ chiến thắng mọi âm mưu và lực lượng xâm lược tàn bạo. Đó là niềm tin mãnh liệt của Hồ Chí Minh vào cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Năm 1966, Mỹ leo thang chiến tranh, liên tục tăng quân ở chiến trường miền nam, tăng cường ném bom phá hoại miền bắc. Từ Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam tóm tắt trong một dòng nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trước lúc đi xa, Người đã viết những dòng cô đọng nhất gửi gắm tâm huyết của mình về chặng đường cách mạng sắp tới của dân tộc. Tư tưởng xuyên suốt nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam phải được tiến hành đến thắng lợi cuối cùng. Ý chí sắt đá ấy, niềm tin vững chắc ấy và quyết tâm không gì lay chuyển nổi ấy đã được Người viết trong bản Di chúc thiêng liêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy thắng lợi tất yếu của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Cái nhìn lạc quan của Người phản ánh trí tuệ sáng suốt, kinh nghiệm dày dạn của một nhà cách mạng tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh vô địch của nhân dân, vào sự chiến thắng tất yếu của chính nghĩa, nhân đạo và những giá trị phẩm giá con người cao quý trước chiến tranh phi nghĩa bạo tàn, phản nhân văn, phản tiến bộ.
Chặng đường 21 năm đấu tranh kiên cường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước đã ghi dấu đường lối chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) đã khẳng định: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay, mãi mãi gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, làm rạng rỡ non sông đất nước ta, cho chúng ta và các thế hệ mai sau những di sản bất diệt” (5).
Những giá trị bền vững tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam đều hội tụ và tỏa sáng ở vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Trong tiến trình khai phá con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh là người hiểu rõ và đánh giá cao vai trò của của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng, trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong quá trình tiến lên xây dựng một xã hội tốt đẹp với mỗi người dân Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn quan tâm tìm mọi biện pháp để phát triển nền văn hóa Việt Nam trên mọi lĩnh vực, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật của nhân dân, phát huy đến mức cao nhất nguồn lực trí tuệ để đưa cách mạng tiến lên. Chủ trương đúng đắn sáng suốt này đã đem lại những tác động thúc đẩy mạnh mẽ cho cách mạng Việt Nam trên nhiều chặng đường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại Phủ Chủ tịch
Yếu tố dân tộc làm nên bản sắc của nền văn hóa. Việc trân trọng giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, song Hồ Chí Minh không cường điệu hóa yếu tố dân tộc. Người đã đi từ văn hóa dân tộc đến văn hóa nhân loại. Luôn chăm lo đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, Người cũng chống lại nguy cơ bảo thủ, khép kín. Người cho rằng: “văn hóa các dân tộc khác phải nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình” (6); Khi xác định đường lối phát triển cho nền văn hóa mới Việt Nam, Người nêu rõ định hướng: “Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng” (7).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nền văn hóa cách mạng có sức sống phải gắn bó với sứ mệnh lịch sử của dân tộc, tình cảm dân tộc, các phong tục tập quán của dân tộc - đó là những nhân tố cơ bản chi phối mạnh mẽ tính dân tộc của văn hóa. Với Hồ Chí Minh, chăm lo đặc tính dân tộc trong văn hóa cũng chính là thể hiện khát vọng hòa bình, tình hữu nghị, tinh thần tự do của cả dân tộc Việt Nam, góp phần làm cho các giá trị văn hóa nhân loại hòa quyện chặt chẽ với nhau tạo nên một nền văn hóa có giá trị lịch sử, thích nghi và phát triển, biết gạn lọc và hấp thụ những tinh hoa của nền văn hóa thế giới, làm giàu cho nền văn hóa dân tộc.
Khẳng định bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là quan điểm biện chứng trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Hai nội dung này định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Người và cả hôm nay.
Nền văn hóa mới Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và góp phần làm phong phú thêm văn hóa nhân loại; hơn nữa còn phải bổ sung những thiếu hụt, phát triển những nội dung mới do những yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước đang đặt ra, cũng như xu thế chung của thời đại đang đòi hỏi. Là người mở đường cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, là nhà văn hóa lớn của nhân loại, Hồ Chí Minh cũng là hiện thân tiêu biểu của sự kế thừa truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp tính dân tộc với tính nhân loại trong văn hóa. Chính vì vậy, Người không ở tầm cao xa cách mà rất gần gũi dù là với người Việt Nam hay với mọi người khác trên thế giới này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam
Tư duy văn hóa của Hồ Chí Minh luôn rộng mở và xa lạ với sự kỳ thị văn hóa. Ở Hồ Chí Minh luôn hiện diện một thái độ trân trọng những giá trị văn hóa nhân loại, không ngừng rộng mở để thu nhận những yếu tố tích cực tiến bộ và nhân văn của thế giới nhằm làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam, giao lưu, đối thoại để đạt tới sự hòa đồng và phát triển. Đây chính là tinh thần khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh. Tinh thần khoan dung này bắt nguồn từ truyền thống nhân ái, khoan hòa, từ đặc tính mềm dẻo, năng động, chấp nhận những yếu tố mới của văn hóa Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và nâng cao.
Con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã tìm ra cho dân tộc Việt Nam là con đường đi từ độc lập dân tộc đến đến một “thế giới đại đồng” hiện đại - một thế giới hòa bình và phát triển hài hòa của các cá nhân, dân tộc và nhân loại. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam được tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn dắt đòi hỏi sự đoàn kết, tập hợp lực lượng của đại đa số nhân dân. Với tinh thần khoan dung rộng lớn và sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công trong việc tập hợp đoàn kết toàn dân thành một khối vững chắc để đấu tranh thắng lợi. Việt Nam là đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối tương quan giữa cái chung và cái riêng, giữa cái tương đồng và cái khác biệt của nhiều cộng đồng người Việt trên cơ sở tôn trọng những giá trị của họ. Khi thực hiện đoàn kết, Người luôn nhắc nhở “phải có thái độ mềm dẻo khôn khéo”; “phải xóa bỏ hết thành kiến”; “phải biết nhân nhượng”, “phải biết tôn trọng nhân cách của người ta”. Cả với những người lầm đường lạc lối, Người vẫn khuyên: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài... Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ” (8). Bởi vì “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái” (9). Người luôn tìm được và nhấn mạnh những điểm tương đồng, những “mẫu số chung”, hướng tới cái đích chung trong khi vẫn bảo lưu những cái khác biệt. Những điểm chung đó là những giá trị mang tính phổ quát - là những nguyên tắc đạo đức, là lòng nhân, là tính thiện, là tình yêu tự do và là khát vọng độc lập dân tộc.
Cũng với phương châm tìm ra những điểm tương đồng làm cơ sở để thu nhận những giá trị, để hòa đồng, để phát triển tình hữu nghị, Hồ Chí Minh là người đưa bàn tay hữu nghị thân ái của nhân dân Việt Nam tới với các dân tộc khác, các nền văn hóa khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa văn hóa dân tộc đến với văn hóa nhân loại và thời đại. Điều này chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Với tinh thần khoan dung rộng lớn, chân thành, cởi mở và ấm áp tình người, với một phong cách ung dung, gần gũi, hóm hỉnh và sắc sảo thông minh, Hồ Chí Minh đã tạo ra một sức cảm hóa lớn. Ở Người, văn hóa khoan dung luôn tỏa sáng trong tư tưởng, trong tình cảm và trong mọi hành động cách mạng. Hồ Chí Minh là hiện thân cao đẹp của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt Nam và Người đã nâng truyền thống tốt đẹp này của dân tộc Việt Nam lên một tầm cao mới. Tinh thần khoan dung văn hóa trong tư tưởng của Người thấm đậm chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã cống hiến cho nền văn hóa Việt Nam cũng như cho văn hóa nhân loại nhiều giá trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm, chúc Tết nhân dân, cán bộ thị xã Uông Bí và chuyên gia Liên Xô công tác tại Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí ngày mùng 1 Tết Ất Tỵ (2-2-1965)
Nhân loại ngày nay có đủ các điều kiện về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và tinh thần để xây dựng một trật tự thế giới tốt đẹp hơn. Song nhân loại cũng đang đứng trước những thách thức lớn về môi trường sinh thái do nạn tàn phá môi trường thiên nhiên không những không giảm mà còn tăng thêm, về nạn nghèo đói do sự phân cực giàu nghèo trong từng quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới ngày càng khốc liệt; những cuộc xung đột tôn giáo và sắc tộc đẫm máu vẫn hằng ngày diễn ra. Lòng thù hận tăng lên ở nhiều nơi đang đòi hỏi nhân loại có những cương lĩnh và hành động chung, kèm theo đó là một cách nhìn về sự chung sống hòa bình giữa những con người, giữa các nhóm sắc tộc và giữa các tôn giáo. Linh hồn của cái nhìn đó là lòng khoan dung. Việc thực hiện tinh thần khoan dung như một yêu cầu khách quan cấp thiết của thế giới hôm nay. Sự khoan dung không giải quyết được mọi vấn đề nhưng nó có thể gíúp chúng ta tìm cách xử trí những vấn đề theo một định hướng tốt đẹp hơn, với tinh thần cởi mở, tiến bộ và hòa bình. Khoan dung có thể giúp chúng ta mở những con đường dẫn tới sự đoàn kết, dẫn tới hòa bình.
Hồ Chí Minh mang hình ảnh của một nền văn hóa tương lai, một nền văn hóa của hòa bình và phát triển. “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai” (10) - như lời nhận xét sâu sắc và tinh tế mà chúng ta đã quen thuộc của Ô-xip Man-denx-tam khi lần đầu tiên tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc năm 1923.
Xây dựng Đảng vững mạnh
Sinh thời, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giáo dục, rèn luyện đảng viên là chủ đề trung tâm trong rất nhiều bài viết và nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người cũng nêu lên những nguyên tắc cốt lõi trong việc rèn luyện đạo đức của người cách mạng.
Trong bản Di chúc thiêng liêng để lại cho hậu thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” (Di chúc). Trong lần bổ sung năm 1968, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi” (Di chúc).
Cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng được Người chỉ rõ là “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” và điều cốt yếu khi thật thà tự phê bình và phê bình là “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức cách mạng được Người vạch ra như những định hướng để Đảng lãnh đạo cũng như cho việc rèn luyện của mỗi cá nhân là:
- Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
- Xây phải đi đôi với chống
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy căn nguyên sâu xa của mọi triệu chứng suy thoái, biến chất về đạo đức nói riêng và các loại suy thoái khác nói chung ở mỗi người là Chủ nghĩa cá nhân. “Thuốc đặc trị” cho căn bệnh đó cũng được Người chỉ rõ là Nâng cao đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thực hiện tự phê bình và phê bình một cách thành thực, nghiêm túc. Người cũng yêu cầu công việc đấu tranh nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân phải được toàn Đảng và mỗi đảng viên tiến hành kiên quyết và bền bỉ.
Trong Di chúc Người nêu lại những điểm mấu chốt nhất, quan trọng nhất, cần thiết nhất cho Đảng ta khi bắt tay vào sự nghiệp lãnh đạo nhân dân ta hàn gắn vết thương chiến tranh, tái thiết và phát triển đất nước. Những điều này càng có ý nghĩa khi Đảng ta đang phải đối mặt trước những thời cơ và thách thức trong bối cảnh mới, khi thực tiễn biến đổi ngày càng nhanh chóng và sâu sắc do những tác động của khoa học - công nghệ. Thực hiện tốt những điều đó, chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua những nguy cơ, thách thức, chống lại nguy cơ suy thoái, biến chất đang đặt ra như một công việc cấp bách của Đảng hôm nay.
Tích cực hóa con người, chấn hưng và phát triển đất nước
Những công việc mà Người trù liệu cho chúng ta sau ngày chiến thắng được đề cập đến trong Di chúc đã vượt lên thời gian để trở thành những định hướng cho chúng ta trong sự nghiệp chấn hưng và phát triển đất nước hôm nay. Mỗi việc trong Di chúc Người chỉ nói vắn tắt, nhưng trong những câu chữ vắn tắt đó nổi rõ những định hướng chiến lược phát triển kinh tế - chính trị - xã hội - văn hóa của đất nước sau chiến tranh. Để mong muốn cuối cùng của Người trở thành hiện thực: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện cùng bà con nông dân xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngày 20-9-1954
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa là động lực vừa là mục tiêu giải phóng của cách mạng. Con người là sức mạnh đầu tiên của cách mạng và cũng là mục tiêu của cách mạng. Một loạt những chính sách xã hội được Người nêu trong Di chúc khi viết về những công việc đối với con người sau chiến tranh là sự cụ thể hóa những lý tưởng giải phóng và phát triển con người.
Trong những dòng cuối cùng để lại cho chúng ta, “Đầu tiên là công việc đối với con người”, và “Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Chiến lược con người là tư tưởng trước sau như một của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã thực hiện chiến lược con người khi khái niệm chiến lược con người còn chưa xuất hiện trên báo chí, sách vở. Tin vào dân, dựa vào lực lượng của nhân dân là nét nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Và để hoàn thành công việc xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh, trong Di chúc, một lần nữa Người nhấn mạnh vai trò, sức mạnh và năng lực sáng tạo của lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo: “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã hư hỏng, cũ kỹ, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân” (Di chúc).
Con người là chủ thể sáng tạo lịch sử. Nhìn nhận, đánh giá đúng vị trí vai trò của nhân tố con người và phát huy mọi nguồn tiềm năng của nó trong quá trình xây dựng xã hội mới có ý nghĩa rất quan trọng cả trong lý luận và thực tiễn, sẽ thúc đẩy quá trình sáng tạo lịch sử của quần chúng. Trong những hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã nhận thức và giải quyết những vấn đề này một cách nhuần nhuyễn, hài hòa và phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam, của cách mạng Việt Nam và đã có những thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ phải biết phát huy tính chủ động sáng tạo của quần chúng để giải quyết mọi vấn đề trong thực tiễn cách mạng. Huy động được khối sức mạnh vô tận của đông đảo quần chúng sẽ đưa sự nghiệp cách mạng tới thành công. Đó là bài học kinh nghiệm vô giá của cách mạng Việt Nam.
Bác Hồ với thiếu nhi Việt Bắc (1960)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm trồng người với nguyên nghĩa của văn hóa (culture) là trồng trọt, vun trồng, chăm sóc cây cối. “Vì sự nghiệp mười năm thì phải trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm thì phải trồng người” - tư tưởng lớn này định hướng cho việc xây dựng con người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của công tác “trồng người” trong từng bước đi lên của đất nước. Vấn đề xây dựng con người mới, xây dựng văn hóa mới, xây dựng đời sống mới, bồi dưỡng và nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt... luôn là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong mỗi bước đi, mỗi thời kỳ, Người chỉ ra “cái được” để khẳng định, “cái tốt” để phát huy; đồng thời cũng vạch rõ những gì chưa được, chưa tốt để phấn đấu làm cho được, cho tốt hơn.
Việc bảo đảm và bảo vệ những lợi ích của nhân dân trong mọi mặt đời sống xã hội chính là nhân tố kích thích, là đòn bẩy, là chất gắn kết các cá nhân trong những hoạt động xã hội. Có như vậy mới bảo đảm được lòng tin của nhân dân vào bản chất tốt đẹp của chế độ mới, kích thích được tính sáng tạo, tính tự nguyện tự giác của nhân dân trong lao động sản xuất và trong các hoạt động khác của đời sống xã hội. Những lợi ích thực tế mà chế độ xã hội mới mang lại cho mỗi người dân chính là tác nhân kích thích tới nhân tố con người, có tác dụng quyết định trong việc khuyến khích, động viên nguồn lực con người trong quá trình xây dựng, chấn hưng đất nước sau chiến tranh.
Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt kỳ vọng vào thế hệ trẻ với nhiệm vụ trọng tâm đưa đất nước phát triển, từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Người căn dặn các học sinh trong ngày khai trường năm học độc lập đầu tiên: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Dù đã đi xa nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn “để lại muôn vàn tình thương yêu” cho thế hệ trẻ Việt Nam; đồng thời Người cũng yêu cầu thế hệ trẻ Việt Nam tích cực tu dưỡng, học tập để trở thành chủ nhân xứng đáng của đất nước tương lai, tiếp bước cha anh nối dài truyền thống tốt đẹp.
Trong tất cả các giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nêu cao vai trò xung kích của thanh niên. Trong những lời cuối cùng để lại trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc làm rất quan trọng và rất cần thiết” (Di chúc). Đây là sự chuẩn bị tốt nhất cho sự phát triển hưng thịnh trong tương lai của đất nước vì thanh niên là “đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta” (Di chúc).
Thế hệ trẻ hôm nay sinh ra và lớn lên trong hòa bình. Họ đã và đang thừa hưởng những thành quả đấu tranh do cha ông để lại. Họ đang đi theo con đường mà dân tộc, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Họ cũng đang tiếp tục thực hiện những quan điểm định hướng cho việc giáo dục, đào tạo thanh niên trong đường lối, chủ trương của Đảng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xứng đáng trở thành những chủ nhân tốt của đất nước.
Những điều chỉ dẫn ấm áp tình thương của Người vẫn là nền tảng định hướng cho sự phát triển các thế hệ thanh - thiếu niên Việt Nam hôm nay. Hôm nay chúng ta tâm niệm những điều Người đã dặn lại và quan trọng hơn là để phấn đấu thực hiện tốt hơn những điều Người mong muốn cho dân, cho nước.
Chú thích:
(1) Từ tên Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh, Người còn có nhiều tên gọi, bí danh khác nhau. Chúng tôi xin được dùng tên chính của Người là Hồ Chí Minh.
(2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) - Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam - Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 37.
(3) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, Tập 4, tr. 3.
(4) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr. 534.
(5)Đảng Cộng sản Việt Nam (2000) - Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, Tập 37 , tr. 474; 475.
(6) Bác Hồ với văn nghệ sĩ - Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985, tr. 49.
(7) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập- Sđd, tập 7, tr. 40.
(8) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập - Sđd, Tập 4, tr. 281.
(9) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập - Sđd, Tập 4, tr. 186.
(10) Ô-xip Man-den-xtam - Gặp một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc - Tạp chí Ngọn lửa nhỏ số 39, tháng 12-1923 - Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập - Sdd, Tập 1, tr. 462.
(i) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1994) - Những chặng đường lịch sử - Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 196.
(ii) M. Admad - Hồ Chí Minh một nhân vật vĩ đại đã công hiến cả đời minh cho sứ mệnh tự do và độc lập - Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh - UNESCO và UBKHXHVN - Hà Nội ,1990, tr. 37.
Nguồn Báo điện tử Nhân dân Tweet