Việt Nam có tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng hơn 29%

07:55 05/04/2012     2160

Xây dựng Đoàn   Ngày 4/4, tại Hà Nội, Bộ Y tế đã "Công bố Kết quả tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010 và Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020." Theo đó, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng theo chỉ tiêu chiều cao/tuổi (suy dinh dưỡng thể thấp còi) năm 2010 toàn quốc là 29,3%, trong đó 31 tỉnh có tỷ lệ trên 30% (mức cao), 2 tỉnh trên 40% (mức rất cao).
s
Khám chữa bệnh cho trẻ em dân tộc tại Trạm y tế. Ảnh minh họa.
Mức giảm trung bình suy dinh dưỡng thấp còi trong 15 năm qua (1995-2010) là 1,3%/năm. Ước tính đến năm 2010, Việt Nam còn gần 1,3 triệu trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng nhẹ cân; khoảng 2,1 triệu trẻ em suy dinh dưỡng thấp còi và khoảng 520 nghìn trẻ em suy dinh dưỡng gầy còm. Phân bố suy dinh dưỡng không đồng đều ở các vùng sinh thái khác nhau.
 
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến khẳng định: Suy dinh dưỡng vẫn còn là thách thức lớn ở Việt Nam, đặc biệt là ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai. Đáng quan tâm là tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi vẫn còn cao, dẫn đến các hậu quả về khả năng nhận thức của trẻ em, cũng như tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội nói chung. Trong khi đó, nước ta đang phải đối mặt với sự gia tăng của tình hình thừa cân, béo phì, nhất là ở vùng thành phố. Tình hình này đòi hỏi ngành y tế phải có những giải pháp can thiệp sớm và kịp thời nhằm giúp Việt Nam tránh được các vấn đề mà các nước có thu nhập trung bình khác đã trải qua.
 
Tổng Điều tra dinh dưỡng năm 2010 đã cung cấp một bức tranh cập nhật, toàn diện về tình hình dinh dưỡng của người dân Việt Nam, đặc biệt là trẻ em và bà mẹ; cung cấp thêm nhiều thông tin để bổ sung cho các dữ liệu thường niên của hệ thống giám sát dinh dưỡng. Kết quả của cuộc tổng điều tra này sẽ là cơ sở để rà soát lại Chiến lược quốc gia dinh dưỡng năm 2011-2020, hướng tới cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em Việt Nam.
 
Tổng Điều tra dinh dưỡng được tiến hành năm 2010, do Viện Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế) phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc và các tổ chức phát triển khác, cùng dự án lồng ghép của các cơ quan Liên hiệp quốc về dinh dưỡng và an ninh lương thực cho mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, thực hiện.
 
Báo cáo cũng chỉ rõ mức suy dinh dưỡng thấp còi ở các vùng miền khó khăn có thể cao gấp đôi so với vùng đồng bằng. Suy dinh dưỡng thấp còi có nghĩa là trẻ thấp hơn so với tuổi của chúng. Các thông tin khoa học gần đây cho thấy suy dinh dưỡng thấp còi là một chỉ số có giá trị nhất phản ánh tiềm năng lớn lên và phát triển của một đứa trẻ trong tương lai, cũng như phản ánh tiềm năng phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Quãng thời gian từ trong bụng mẹ đến 2 tuổi là giai đoạn cửa sổ quan trọng bậc nhất để có các can thiệp phòng tránh trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi, cũng như phòng tránh các ảnh hưởng khác của nó.
 
Kết quả cuộc tổng điều tra cũng cho thấy: Năm 2010, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta là 17,5%; trong đó suy dinh dưỡng vừa (độ I) là 15,4%, suy dinh dưỡng nặng (độ II) là 1,8% và suy dinh dưỡng rất nặng (độ III) là 0,3%. Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị thiếu máu dinh dưỡng là 29,2% và ở phụ nữ có thai là 36,5%; khẩu phần ăn của trẻ em 2-5 tuổi có mức năng lượng trung bình đáp ứng được 97% nhu cầu khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng; chiều cao của thanh niên Việt Nam ở nhóm 22-26 tuổi với mức đạt được của nam là 1,64m và của nữ là 1,54m; 82,1% người tiêu dùng từng được xem, nghe, tuyên truyền về kiến thức an toàn vệ sinh thực phẩm; 8,2% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bị thừa cân, béo phì...
 
Trước tình hình trên, Chiến lược quốc gia dinh dưỡng 2011-2020 và tầm nhìn năm 2030 đã khẳng định nhiệm vụ cải thiện dinh dưỡng là trách nhiệm của các ngành, các cấp và mọi người dân; phấn đấu đến năm 2030 tỷ lệ trẻ bị suy sinh dưỡng thấp còi giảm xuống dưới 20% và suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 10%.
 
Chiến lược tập trung vào 6 mục tiêu là: Tiếp tục cải thiện về số lượng, nâng cao chất lượng bữa ăn của người dân; cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em; cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng; từng bước kiểm soát có hiệu quả tình trạng thừa cân, béo phì và yếu tố nguy cơ của một số bệnh mãn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng người trưởng thành; nâng cao hiểu biết, tăng cường thực hành dinh dưỡng hợp lý và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động mạng lưới dinh dưỡng cộng đồng và cơ sở y tế./.