Nêu gương - giải pháp quan trọng góp phần xây dựng Đảng về đạo đức: Bài 1: Phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên
09:33 28/07/2023 29561
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải đi đôi với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, khẳng định tính đúng đắn của học thuyết cách mạng và tính sáng tạo trong thực tiễn.
Nêu gương là một trong những phương thức lãnh đạo có sức lan tỏa, dẫn dắt, truyền cảm hứng, thúc đẩy hành động cách mạng của Đảng ta đối với Nhân dân. Trong đó, việc phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu chính là yếu tố căn cốt mang tính tiên quyết trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
“Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”
Nêu gương, noi gương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ giúp mỗi người tự khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế; mà còn góp phần lan tỏa những hành động, việc làm tốt để khích lệ, cổ vũ, động viên người khác học tập và làm theo, hướng con người tới các chuẩn mực chân - thiện - mĩ, các giá trị tốt đẹp và sự hoàn thiện bản thân trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nêu gương là một vấn đề quan trọng mang tính khách quan, tất yếu, là phương thức lãnh đạo khoa học, trí tuệ, nhân văn của Đảng ta trên cơ sở thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với sự liêm chính của một đảng cầm quyền. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng ta lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Chỉ có sự gương mẫu, hy sinh, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình thì đội ngũ đảng viên mới thuyết phục được đông đảo giai cấp công nhân đi theo cách mạng, thực hiện mục tiêu của cách mạng.
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò to lớn của nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn luận về vấn đề này ở nhiều góc độ với tần suất lớn, Người từng dạy: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(1); “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng”(2). Đối với Đảng, quan điểm về nêu gương được cụ thể hóa bằng nhiều chủ trương, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên (3); trong đó, nhấn mạnh nêu gương là trách nhiệm, bổn phận và là đạo lý của người cán bộ, đảng viên trước Nhân dân. Nhờ có những chủ trương, quy định đúng đắn và kịp thời đó, ý thức trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên đã từng bước được nâng lên, tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ; góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội XIII chỉ rõ: “Thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao. Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ”(4). Chúng ta không khỏi đau xót trước những con số vi phạm phải xử lý kỷ luật đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII (5). Chúng ta không thể thờ ơ trước thông tin: Chỉ tính riêng năm 2022, BCH Trung ương thi hành kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng 4 đảng viên; Bộ Chính trị thi hành kỷ luật 11 tổ chức đảng; Ban Bí thư thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng, 43 đảng viên; có 10 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng bị thi hành kỷ luật; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 101 tổ chức đảng và 5.356 đảng viên. Tính đến giữa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xem xét cho thôi giữ chức vụ, cho nghỉ công tác, nghỉ hưu, bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý; các địa phương cũng bố trí công tác và thực hiện chính sách đối với 22 trường hợp cán bộ sau khi bị kỷ luật.
Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại bế mạc Hội nghị giữa nhiệm kỳ BCH Trung ương khoá XIII ngày 17-5-2023 chỉ rõ: “Các thế lực xấu, thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ chúng ta, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta”. Một trong những đòn chống phá của các thế lực thù địch, phản động vào quan điểm của Đảng về nêu gương chính là lợi dụng những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, thiếu rèn luyện, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống... để công kích, truyền bá những quan điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc nhằm “vô hiệu hóa” phương thức lãnh đạo bằng nêu gương bởi vì nó không chỉ làm tổn hại thanh danh của Đảng, mà còn ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Đảng trong thời kỳ mới; nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(6), cùng với đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài là đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên thì nhiệm vụ không thể thiếu chính là đẩy mạnh các biện pháp khắc phục biểu hiện lệch lạc trong thực hành nêu gương; kiên quyết đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.
“Chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”
Để thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, một trong những vấn đề tiên quyết là mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt, nắm kỹ, hiểu sâu nội dung nêu gương.
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022, Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng khóa XIII về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới chỉ rõ: “Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công của Đảng; giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân; học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất, lối sống; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng”. Điều này nhất quán với nội dung được Đảng ta quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trên tất cả các mặt: Tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống, tác phong; tự phê bình và phê bình; quan hệ với nhân dân, trách nhiệm trong công tác; ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ.
Có thể thấy, khi cán bộ, đảng viên nắm kỹ, hiểu sâu và thực hành tốt nội dung nêu gương trong cả ba mối quan hệ (đối với mình, đối với người, đối với việc) như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy sẽ đầy đủ, trọn vẹn và phát huy được hiệu quả thiết thực. Theo đó, “đối với mình”: Không được tự cao tự đại, tự mãn, mà phải cần, kiệm, liêm, chính; phải là “Nhân, Trí, Dũng, Liêm”; bản thân mình phải làm gương trong công việc từ nhỏ đến lớn, thường xuyên học tập, rèn luyện, tự phê bình, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của bản thân về mọi mặt để tiến bộ. “Ðối với người”: Phải chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết và có tình thương yêu, bao dung, độ lượng. “Đối với người”: Trước hết và quan trọng nhất là đối với đồng chí, đồng sự, nhất là đối với cấp dưới và sau đó là đối với quần chúng nhân dân. Đối với việc, phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gương mẫu phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phải luôn giữ vững nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, phải “chí công vô tư”, phải biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, Nhân dân và của Đảng.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo bằng nêu gương ngày càng được bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh các quy định về nêu gương đã nâng cao tính pháp lý và trực tiếp điều chỉnh sự nêu gương của cán bộ cấp cao, tạo sự đồng bộ về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong đó, Đảng ta nhấn mạnh bốn yêu cầu chủ yếu trong thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên mà trước hết chính là thực hiện nhất quán phương châm nêu gương “Trên trước, dưới sau”, “Trong trước, ngoài sau”, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ có chức vụ cao, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.
Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cụm từ “Chức vụ càng cao càng phải gương mẫu” được khẳng định tới 7 lần, điều đó nghĩa là Đảng ta chú trọng hơn bao giờ hết trách nhiệm nêu gương của cán bộ có chức vụ cao, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức. Bởi “người có chức vụ càng cao” là người “đứng mũi, chịu sào”, chịu trách nhiệm lớn nhất về tập thể mình phụ trách, cần phải có “tâm sáng - tri thông - chí bền” để giữ vững “liêm, chính”, khắc phục khó khăn, triển khai hiệu quả các nhiệm vụ; vì vậy càng cần phải gương mẫu, tiên phong, đi đầu trong tập thể, cơ quan, đơn vị mình.
Yêu cầu thứ hai là đề cao trách nhiệm tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta xác định: “Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”(7). Đây là vấn đề mới, yêu cầu, đòi hỏi cao của Đảng, từ “phải” thực hiện quy định thành “nhu cầu”, “mong muốn”, “tự giác” thực hiện quy định nêu gương; nhằm tạo sự lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội - thực sự trở thành phong trào tự giác nêu gương trong toàn Đảng và trong quần chúng nhân dân. Để nêu gương là tự giác, là nhu cầu tự thân, không phải bắt buộc, không hình thức thì mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải thực sự “chí công, vô tư” trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; qua đó, sẽ tạo được sự đồng thuận và làm theo trong tập thể, cơ quan, đơn vị và quần chúng nhân dân.
Yêu cầu thứ ba Đảng ta đặt ra là đề cao trách nhiệm nêu gương “Nói đi đôi với làm”, chú trọng nêu gương việc “làm” của cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu theo tinh thần “7 dám”, đó là: “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung”(8). Và đối với trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên thì phải “dám nói” và “nói đi đôi với làm”. “Dám nói” theo quan điểm của Đảng là: Nói đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không được nói sai, nói giảm, nói tránh, nói bừa mà phải nói trúng, nói những vấn đề thiết thực, nói đúng lòng mình. “Nói đi đôi với làm” là lời nói và việc làm phải gắn chặt với nhau; đã nói là phải làm, phải nhất quán từ nhận thức đến phát ngôn và hành động thực tiễn; nghĩa là nêu gương phải được biểu hiện sinh động cụ thể trong sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người. Do đó, để khuyến khích, động viên những cán bộ, đảng viên “dám nghĩ, dám nói, dám làm, trách nhiệm cao, hiệu quả công việc lớn”, Đảng ta nhấn mạnh việc “Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội”(9). Có thể thấy, thực hiện tốt yêu cầu này chính là góp phần để nêu gương đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả.
Yêu cầu thứ tư, điểm mới trong quan điểm của Đảng ta về đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chính là phát huy vai trò phối hợp của các chủ thể trong kiểm soát quyền lực để thúc đẩy, đánh giá thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Việc kiểm soát quyền lực một mặt giúp ngăn ngừa khuyết điểm vi phạm, mặt khác nó chính là “chiếc gương soi” kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực chất yêu cầu này là tạo ra chính sách, quy định, chế tài, cơ chế, biện pháp để các chủ thể (Quốc hội, Hội đồng nhân dân; mặt trận Tổ quốc, báo chí, nhân dân…) ràng buộc, giám sát nhằm “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, bảo đảm cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý khi thực thi nhiệm vụ phải hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật cho phép, từ đó không ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản thân, nêu gương trong thực thi công vụ. Và để đánh giá kết quả thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương, Đảng ta chỉ rõ: “Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên”(10).
Những nội dung, yêu cầu trên đây nêu ra hết sức ngắn gọn, song để thực hiện tốt và toàn diện lại cần một quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu nghiêm túc, bền bỉ, nỗ lực, kiên quyết chiến đấu và chiến thắng những dục vọng, cám dỗ, cạm bẫy giăng bủa mọi lúc, mọi nơi; qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ ngày càng hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện, nhiều cá nhân nêu gương tốt sẽ góp phần xây dựng tập thể nêu gương, tổ chức đảng nêu gương, toàn Đảng nêu gương để xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với sự tin yêu của Nhân dân.
---------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2011, tập 1, tr.284.
(2) Sách đã dẫn (Sđd), tập 12, tr.548.
(3) Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018, của BCH Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị khóa X về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2021, tập 2, tr.179.
(5) Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã kỷ luật hơn 80.000 cán bộ, đảng viên; trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, bao gồm 27 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Uỷ viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, hơn 30 sĩ quan cấp tướng; đáng lưu ý là trong số đó có nhiều cán bộ cao cấp bị xử lý hình sự.
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr.112.
(7) Sđd, tập 1, tr.184.
(8) Sđd, tập 1, tr.187.
(9) Sđd, tập 1, tr.184.
(10) Sđd,, tập 1, tr.192.
(Còn tiếp...)
Trung tá Vũ Thị Hồng Minh
Ban Phụ nữ Quân đội, Tổng cục Chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam